顯示具有 翻過山坡就是我家 標籤的文章。 顯示所有文章
顯示具有 翻過山坡就是我家 標籤的文章。 顯示所有文章

書評:翻過山坡就是我家


我生長於都市,也曾在戰爭年代的鄉村度過幾年孤寂的童年,但我從未真正經歷過這本書裡描寫的那些人生境遇,那些彷彿因習於艱苦而顯得安然的生活。但僅憑這點,已足以體會那份悲傷、苦楚與屈辱。

這本書在人的一生中最美好的階段——求學時期——畫下句點,那樣的結尾讓人喉頭哽咽,因為其中的哀傷如土地般厚重、乾涸卻強烈。

其實,無需親身經歷那樣極端的貧苦才能理解。你只需坐下來,翻開書本,敞開心扉。

你將會感受到一種既痛苦又美麗的情感,那就是對他人的深切共鳴。

——作家 黎明霞(**Lê Minh Hà**)

Sinh ra lớn lên ở thành phố, cũng có vài ba năm tuổi nhỏ lầm lũi ở làng quê ngày chiến tranh, nhưng tôi chưa phải sống qua những cảnh đời ở trong cuốn sách này, dường như là an nhiên vì quen nhọc nhằn. Thế cũng đủ hiểu những buồn, những khổ, những tủi.

Cuốn sách kết thúc ở chỗ kết thúc khoảng đời đẹp nhất với một con người – thời đi học – khiến ta nghẹn giọng, vì nỗi buồn nặng như đất, mạnh mẽ và khô rốc ở trong đó.

Không cần phải sống qua khổ nghèo tận cùng đến thế mới hiểu đâu. Chỉ cần ngồi xuống, mở sách, mở lòng.

Bạn sẽ được nhận vào mình một cảm giác rất đau và rất đẹp, là cảm thông được với con người.

Nhà văn Lê Minh Hà

雄的故事(Chuyện của Hùng)


雄的故事(Chuyện của Hùng)


我一直有關注霞(Hà)在臉書上分享的童年文章。很多次想留言,但總是猶豫。昨天看到她說要結束這個主題,我覺得應該對她說點什麼。

我家的情況其實跟霞家很像。父親長年在外,平時的生活就是母親帶著我們五個孩子。家裡是全村最窮的三戶之一。母親是農民,沒有像霞的母親那樣有份教師的工作,每月還能拿到配給票。(以前我母親也念過師範中專(Trung cấp Sư phạm),但學校被炸了,她就退學了。)

很多天讀完霞的文章,我就特別想媽媽,雖然我家離媽媽也就五公里。我很少表達對媽媽的感情,但有一次中午看完霞寫的那段——深夜媽媽還在縫帽子,我就回家陪媽媽吃午飯了。

媽媽打電話給我,我卻對她口氣很差。因為她打來其實也沒什麼事,而我當時工作很忙。我對媽媽說,如果沒什麼重要的事,工作時間不要打電話來。

媽媽病了,姐姐們擔心她會死。我卻很認真地說:「七十歲死了也夠了。七十歲的人死了應該高興,這代表她過完了一生。」不曉得她聽了會不會難過。這話既是安慰她,也是在安慰自己。

我女兒已經上五年級了,但媽媽有時還想牽我的手。她知道我不喜歡,所以都等我睡著才來牽。結果我把她的手甩開。那時看著媽媽真的很可憐。

有時媽媽會聊起往事,我們兄妹就打斷她。因為沒有孩子會喜歡聽母親訴苦。那些苦的回憶,也會喚起我們內心深處的悲傷。

霞提到那種「配鹽炒茄子、醃茄子吃飯」的日子,我們那時連飯都吃不上。所謂的「飯」,從來就不是真正的飯,而是野樹薯(mì cặc voọc)。因為土地太貧瘠,野薯細得像大拇趾(也可能是太餓,還沒長大就挖回來煮)。

有天中午,媽媽耕田回來,只有一點野苋菜(rau má)。連野薯都沒有。四個孩子餓得無力地躺在四個角落,一聲不吭。媽媽翻遍廚櫃,然後進房間。

什麼也沒有。她戴上斗笠走到對面的田裡,那裡有別人種的菜園。她挖了兩叢打算拿回來剁碎煮野苋菜湯。結果被抓了個正著。人家當場罵她是小偷。那時我開始懂得心疼媽媽。每次回想童年,就是她從對面回來時擦眼淚的樣子浮現在眼前。

我們家還有一句話,是霞家沒有的——「媽媽,合作社催糧了(ban trẻo)」。我們家欠合作社兩噸稻,每年被催債十幾次。那兩噸稻是因為幾年稅沒繳完積下來的。就連歉收年也還要交稅。催債人來了,就會爬上廚櫃查存糧。媽媽沒來得及躲,就得硬著頭皮被罵。

鄰居家也苦,但他們家有個比較有出息的哥哥。有次哥哥回來,妹妹問能不能借點米應急過春荒。哥哥故意大聲說,讓我們這邊也聽見:「我不借。要借就去學人家**跟合作社借(vay hợp tác xã)**吧!」

媽媽又拉起衣襟擦眼淚。

**「(Ba chấm dó)」**是我媽媽的名字。



@@

Ba chấm dó」是越南語的俚語或網路用語,其中:

  • Ba chấm(三點)字面意思是「…」,也就是省略號「...」;

  • 是口語中表示「那個」或「啦」的語氣詞,相當於英文的 "you know" 或 "that thing".

合起來,「Ba chấm dó」通常帶有無奈、難以言喻、尷尬、心照不宣的語氣。例如當某人講到一個敏感或難解釋的話題,不方便直說時,就會說「ba chấm dó」,相當於中文的「你懂的啦……」或「唉,那個嘛……你懂啦」。

使用範例:

A: Sao mày nghỉ việc vậy? (你為什麼辭職啊?)
B: Ba chấm dó... (唉,說來話長啦……你懂的)

需要我幫你整理幾個實際的網路用例嗎?

@@



她轉過身看著我們四個孩子,語氣堅決地說:「媽媽這輩子已經夠苦了,你們不能輟學。要讀書賺錢。苦就是跟屈辱連在一起,你們知道嗎?」

我考了兩次大學都沒上,後來都快沒信心再考第三次了。我真的很沮喪,也很害怕。

不考了,那我還能做什麼?我能幹什麼?去耕田嗎?我默不作聲地躺著。

爸爸什麼時候回來?媽媽說,沒賺到錢就回來,那更苦。爸爸去外地工作是為了還債。

我終於懂了那句話:「人要活好一生,真的不容易。」

媽媽哭著求我再努力這最後一次。於是我拖著沉重的身體,又拿出舊書重新複習。就像有一座大山壓在背上。

第一科考試,監考老師發下考卷。我心想,如果這次又落榜,那這樣的日子什麼時候才會結束?我必須考上,不能再落榜。我拿起試卷,極度緊張,突然全身一震,神經抽搐(xuất tỉnh)

考完走出校門,看到爸爸像兩年前一樣站在那裡等我。我差點哭了出來。男人是不該哭的。爸爸也在努力壓抑住快要湧出的淚水。爸媽懂我現在的心情。他們知道我不想被人陪考,就默默地躲在後面,等我考完才出現。

我終於在**2000年大學入學考試(kì thi đại học năm 2000)**中以剛好及格的分數考上了。那時我去報到,別人念中專的孩子都已經快畢業準備工作了。

體檢時量出來身高166公分,體重只有40公斤。醫生說我體重過輕,心跳過快,不符合健康標準,要我回家跟父母談談,再來見主治醫生。

這三年我瘦了12公斤。

考太多次落榜,讓我像是得了心理創傷。我的心跳紊亂。如果體檢沒過,就不能入學。

我跑出體檢室,衝去車站回家找媽媽。

媽媽把家裡**甕裡所有的花生(lạc)**全掏出來賣了。

我們母子倆又搭車回學校。媽媽直接去找那位幫我體檢的醫生。還沒來得及開口,她就哭得像下雨一樣,一邊哭一邊把信封塞進他手裡。他說:「放心吧,孩子可以入學了。」媽媽聽完馬上趕回車站,如果再晚一點就沒末班車了。看著她孤零零爬上車,我才突然想到她還沒吃飯。

貧窮讓人意志堅定,也讓人變得脆弱無力。

為什麼?為什麼我們的父母耗盡了精神與體力,還是長期處在貧苦中?

為什麼?為什麼一個四十歲的男人,還在問著同樣的問題?


書評:
這篇《雄的故事》以簡練、節制但深具穿透力的文字,記錄了一個越南平民家庭在戰後、貧困與社會階級壓力下的生存掙扎與代際情感。它不僅是作者對母親的遲來告白,也是對那個「努力不一定改變命運,但不努力就沒有任何希望」時代的真實素描。沉痛而溫柔,值得細細閱讀。



Chuyện của Hùng

Mình theo dõi những bài viết về tuổi thơ Hà đăng trên trạng thái facebook. Nhiều lần muốn comment nhưng ngại. Hôm qua thấy Hà viết rằng sẽ dừng chủ đề này mình nghĩ nên nói điều gì đó với Hà.

Cảnh nhà mình cũng gần giống nhà Hà. Bố xa nhà, cuộc sống hằng ngày là năm mẹ con với nhau. Nhà mình là một trong ba nhà khổ nhất xã. Mẹ mình là nông dân chứ không phải như mẹ Hà có thêm nghế giáo viên được tem phiếu hằng tháng. (Trước mẹ mình cũng đi học Trung cấp Sư phạm nhưng trường bị đánh bom, mẹ bỏ học luôn).

Nhiều hôm đọc bài Hà xong mình nhớ mẹ cực kì, dù mình sống cách nhà mẹ có năm cây số. Mình ít biểu lộ tình cảm với mẹ nhưng có lần buổi trưa đọc xong bài Hà nói đêm khuya mẹ ngồi may nón, mình đã về nhà ăn cơm trưa với mẹ.


Mẹ gọi điện bị mình gắt gỏng. Bởi cuộc điện thoại của mẹ chẳng có nội dung gì mà công việc của mình thì bận rộn. Mình nói với mẹ, không có việc gì thì trong giờ con làm việc mẹ không được gọi.

Mẹ ốm. Các chị lo mẹ chết. Mình nói nghiêm túc, mẹ bảy mươi tuổi chết được rồi. Mẹ bảy mươi tuổi chết là phải mừng cho mẹ sống trọn vẹn một cuộc đời. Nghe câu đó không biết mẹ có buồn không. Mình trấn an mẹ và cũng là trấn an mình.

Con gái mình học lớp năm rồi, thế mà nhiều khi mẹ vẫn muốn cầm tay mình. Mẹ biết mình không thích nên đợi mình ngủ mới lại cầm tay. Mình hắt tay ra. Nhìn mẹ khi đó thật tội nghiệp.

Thỉnh thoảng mẹ gọi chuyên ngày xưa. Mỗi lần như thế, chị em mình gạt đi. Chẳng đứa con nào thích nghe mẹ kể khổ. Nỗi khổ năm xưa gọi lại trong lòng bọn mình những nỗi buồn.

Cái thời mà Hà kể ăn cơm với cà xảo, cà muối thì nhà mình không có cơm. Bữa cơm không bao giờ có cơm. Bữa cơm là mì cặc voọc, là do đất cằn cỗi mì chỉ bằng ngón chân cái (hoặc là do đói quá mì mới bằng ngón chân cái đã nhổ về nấu ăn).

Một buổi trưa, mẹ đi cày về chỉ có rau má. Mì “cặc voọc" cũng không có lấy một mẫu. Bốn đứa con đói quả nằm bốn góc. Nằm im thin thít chứ không đứa nào rên rỉ. Mẹ lục sục trong chạn rồi vào trong buồng.


Không có gì. Mẹ đội nón đi ra đối. Ngoài đổi có vườn sẵn của người ta. Mẹ nhổ hai bụi về với ý định băm nấu canh rau má. Người ta bắt được tại chỗ. Họ chửi rủa mẹ đồ ăn trộm. Khi đó mình đã biết thương mẹ. Nhắc đến tuổi thơ là cảnh mẹ đi ngoài đối vào, tay quệt nước mắt tái hiện trong đầu.

Chị em mình còn một câu mà nhà Hà không có. "Mẹ ơi, ban trẻo." Nhà mình nợ hợp tác xã hai tấn thóc nên một năm chục lần ban đòi nợ đến nhà. Nợ hai tấn thóc là do thuế ruộng nhiều năm dồn lại. Vụ mất mùa cũng bị tính thuế. Ban tới, trèo lên chạn kiểm tra. Mẹ không trốn kịp củi mặt chịu trận.

Nhà hàng xóm cũng khổ như nhà mình nhưng họ có người anh trai khá hơn. Hôm đó người anh trai đến nhà chơi, em gái hỏi vay anh trai ít lúa chống đói giêng hai. Người anh trai nói to - cố tình cho mẹ con nhà mình bên này nghe thấy: “Tao không cho mày vay đâu. Mày vay thì như nhà bà... vay hợp tác xã thôi."

Mẹ lại kéo vạt áo lên lau nước mắt.

Ba chấm dó là tên của mẹ mình.

Mẹ quay sang nhìn bốn đứa con nói quyết liệt: "Tao khổ rồi. Chị em bay không được bỏ học. Học mà kiếm tiến. Khổ là đi với nhục có biết không."

Qua hai lần thì trượt, mình không còn ý định thì đại học lần thứ ba nữa. Mình nản quá rồi. Mình sợ hãi.

Không học để thi nữa thì con tính làm gì, con có thể làm được gì? Đi cày như mẹ sao? Mình nằm im không nói gì.

Bao giờ bố mới trở về? Mẹ nói, không kiếm được tiền mà trở về thì càng khổ hơn. Bố đi làm xa để kiếm tiền trả nợ.

Mình đã hiểu câu: "Con người để sống một cuộc đời thật không dễ dàng."

Mẹ khóc, mẹ van xin mình cố ôn thi nốt lần này. Mình nặng nề ôm sách cũ ra ôn lại từ đầu. Thấy như có một ngọn núi đang đè nặng lên lưng.

Môn thi đầu tiên. Giám thị phát để thi. Nếu trượt, thì những ngày tháng như thế này bao giờ mới chấm dứt. Phải đỗ. Không thể trượt. Mình cầm để thi. Căng thẳng cực độ. Một cơn rùng mình. Mình bị xuất tỉnh.

Ra khỏi cổng trường thì thấy bố đã đứng chờ như hai năm trước. Mình suýt khóc. Đàn ông không được khóc. Bố cũng đang cố kìm khỏi một cơn khóc. Bố mẹ biết tâm lí mình lúc này. Bố mẹ biết mình không muốn có người đi cùng nên lặng lẽ theo sau, chờ con thi xong mới xuất hiện.

Mình đỗ kì thi đại học năm 2000 với số điểm vừa đủ. Mình đi nhập học khi mấy đứa học trung cấp đã ra trường, chuẩn bị đi làm.


Đi nhập học. Kiểm tra sức khỏe: Cao 1,66 m, nặng 40 kilôgam. Cháu thiếu cân nặng và nhịp tim quá nhanh, sức khỏe vậy là không đạt. Cho cháu thêm hai ngày về nhà nói với bố mẹ đến gặp bác.

Mình đã sụt đi 12 kilôgam trong ba năm vừa qua.

Thi trượt nhiều quá khiến mình như bị sang chấn tâm lí. Tim minh đập loạn. Trượt vòng sức khỏe sẽ không được nhập học.

Mình chạy ra khỏi phòng kiểm tra sức khỏe. Ra bến xe về nhà nói với mẹ.

Mẹ vét hết lạc trong chum đi bán rẻ.

Hai mẹ con lại bắt xe ra trường. Mẹ đến thẳng phòng khám sức khỏe gặp người bác hôm cân đo cho mình. Chưa kịp cất lời chào, mẹ đã khóc như mưa. Vira khóc vừa nhét vào tay ông ta cái phong bì. Yên tâm cháu nhập học rồi nhé. Mẹ nghe xong câu đó quay trở ra bến xe, nếu muộn chút nữa là hết chuyến. Nhìn mẹ lọ mọ lên xe mới nhớ mẹ chưa ăn gì.

Nghèo khổ đã rèn luyện ý chí và cũng làm cho chúng ta bạc nhược.

Tại sao vậy, tại sao cha mẹ chúng ta làm lụng kiệt quệ cả tinh thần và thể xác mà vẫn triền miên đói khổ?

Tại sao? Tại sao đàn ông bốn mươi tuổi vẫn câu hỏi đó?


〈完稿補遺〉:環的故事

〈完稿補遺〉:環的故事


霞到河內上大學的時候,環南下了。那天,一位來家裡招工的女人告訴我:只需交給她五十萬越盾(500 nghìn đồng)作為介紹費,她就會負責安排我到西貢(Sài Gòn)一座大型加工出口區(khu chế xuất)擔任工人,月薪超過五十萬越盾(500.000 đồng)。

母親一開始不願我去,因為她根本湊不出那筆介紹費。我堅持非去不可,母親終究還是心軟了,設法去借錢。

我與光(Quang)與俄(Nga)兩人同行,三人是高中同班同學,一起踏上人生中第一次遠行。車子開到另一個鄉村,還上了幾位跟我們一樣神情茫然的少年。那時是初秋,仲介跑遍鄉間招募剛高中畢業、尚未升學的孩子們當工人。

抵達西貢,我們才知道要去製鞋廠工作。依仲介分配,光和俄負責鞋底部門,我則在縫製部門。兩人隔天便得上工,我則需接受一個月的縫紉培訓。

我身上沒有錢,仲介先借給我十五萬越盾(150.000 đồng)作為一個月的生活費,說等領到第一個月薪水後再還。

我們三人同住在仲介安排的租屋區。

光與俄只撐了三天便辭職了。她們受不了惡臭與工廠內悶熱的空氣。「我們寧願損失那五十萬,也要回家。」

見我因為害怕獨自留下而哭泣,她們便撒謊說只是出去走走,很快就會回來。

我手上只有十五萬,要怎麼吃一個月的飯?人生地不熟,沒錢就等於等死。我決定每天只吃一餐——午餐。

我的午餐是一碗飯加上一點豆腐滷菜(bia dâu phụ),把滷豆腐當空心菜吃。天天吃豆腐,導致我之後只要看到豆腐就頭痛欲裂。

下午課程結束後,我必須步行兩公里回到宿舍,飢腸轆轆。若再多吃一餐就會打破規劃,難以支撐整個月。我便躺下來,俯臥在床上,反覆告訴自己:「不餓,一點都不餓。」默念十遍後,飢餓便漸漸退去。每天晚上,當房東一家在屋內吃晚飯時,我就在外面用這樣的「咒語」安撫胃袋。

一個月後,我學成了,拿到了職業證書,正式上班。

第一天上班:

午餐鈴聲響起,像其他人一樣,我飛奔到食堂。一位姐姐說:「快吃完還能小憩一下。」

剛踏進食堂我便震撼了——飯菜擺滿整個托盤,想吃多少就吃多少,毫無限制。我一邊扒飯一邊想到家人,心中一陣酸楚。如果哥哥姊姊們年輕時也能來當工人,就算沒有薪水,光是每天能吃這麼一頓,也值了。他們這輩子哪曾見過這樣豐盛的飯菜?只需舀來就能吃,不需多想。

第二天:

我請假上廁所,從三樓跑到一樓,廁所前排了一長隊工人。等了十分鐘才輪到我。上完後我拼命跑回三樓。

「妳給我上來!」

「偷懶去睡覺啊?」

「剛上班就開始耍花樣。」

我站在生產線前端,所有目光都聚焦過來,我低著頭,連忙道歉。

第三天:

又是站在生產線前端,被罵得狗血淋頭。

「妳是腦袋進水了嗎?」

「想被炒魷魚是不是?縫成這樣!」

這裡只有一種聲音——謾罵。有人罵,有人默不作聲,或者大家一起罵。

第六天:

午餐鈴響,人群蜂擁而出。樓梯狹窄,工人你推我擠。一名女工在樓梯中間摔倒,被後面蜂湧而至的人群踩過,當場昏厥。一個月後,她的家人才從西貢的醫院接她回家,順帶領回一筆賠償金,因為她腿骨折再也無法工作了。

我仍然每天只吃一餐。工廠的午餐我盡量吃多,三碗、四碗,後來能吃到五碗。這十五分鐘的用餐時間,是我一整天的食物份量。

第一個月的薪水是六十二萬越盾(620.000 đồng)。

扣除五萬的房租、十五萬的預支生活費,還有水電費……我去郵局匯了十萬越盾(100.000 đồng)回家給媽媽。

從郵局匯款那刻起,我心中忐忑不安,每晚翻來覆去地想:媽媽收到錢了嗎?她會有什麼反應?她一定會很驚訝。

八天後,我猜錢該到了,便跑到郵局,請他們在週日中午打電話到家鄉的通訊所,通知爸媽接聽女兒的來電。

週日中午十二點,電話那頭傳來爸爸的「喂」,我立刻放聲大哭,哭到說不出話來。爸爸也沉默不語。通話結束,我被收了五萬越盾——等於一個月房租。我竟然還沒問到錢是否真的寄到了。

我又請郵局下週同一時間再撥一次。

那天爸爸不在,是嫂嫂來接電話。我不好意思,只聊了幾句便掛了。我不想讓嫂嫂知道我有匯錢回家。

為什麼媽媽不來接電話?後來她轉達說她不會接電話,別再浪費錢打來了。

我寫信給媽媽:「媽媽,請保重身體,別為我操心。我的生活已經穩定,在這裡我過得很好,和家裡完全不一樣……」寫到「我在這裡過得很好」時,眼淚不斷湧出。眼前浮現的是一幕幕辛酸。揉掉信紙,重寫。

再寫到「我在這裡過得很好」時,依然止不住眼淚,又把信揉掉了。

媽媽不識字,收到信得請鄰居姊姊唸給她聽。聽完後,她再口述內容,讓姊姊代筆回信。

媽媽在信裡說,她已收到那10萬盾(100.000 đồng),知道我在那裡過得很好,就放心了。她勸我專心工作,不要想家,家裡爸爸媽媽都很好。

每個月發薪後我都去郵局匯10萬盾給媽媽。我叮囑她要每天拿這筆錢買魚露和鹽。

媽媽又請鄰居姊姊寫信來,說她會把我寄的錢存起來,已經存下來買了一頭牛,將來可做本錢。

我回信說:「媽媽別買牛,我不會回家的,我在這裡很好,不會回去的。」

這次的信不是媽媽轉述,而是那位姊姊自己寫來的。她說,我匯回的錢媽媽拿去買了一頭牛,但那頭牛已經被偷走了。牛丟了,媽媽傷心欲絕,哭了一整週,說她心疼我,白白辛苦了。

我不為失去那頭牛難過,我心疼的是媽媽。

後來姊姊嫁到外地,無法再幫忙寫信。從那時起,寫信給我的是爸爸。


書評小語:

這篇〈環的故事〉是一則赤裸而深切的移工記事,刻劃出年輕女子離鄉背井、為求溫飽而與現實搏鬥的真實經歷。作者以近乎白描的語調,將都市工廠中如地獄般的勞動環境、飢餓、思鄉與親情糾葛,一點一滴地堆疊出來,令人動容。沒有憤怒的控訴,卻有淚水中的倔強;沒有明亮的希望,卻有母女間微光般的關照。這不只是一段個人記憶,而是一整代貧苦人家對「出路」的迷茫與堅忍。


父親的信

「越南社會主義共和國
獨立-自由-幸福

我名叫:潘登省(Phan Đăng Tỉnh)
寫給我女兒名叫:潘氏環(Phan Thị Hoàn)

父親寫這封信是要報告家鄉的情況。

向你報告,父親我身體還好,像當年胡志明(Bác Hồ)那樣。妳離家在外,會想念爸爸媽媽這是理所當然的,但妳還記得我們那間貧窮、簡陋的茅草屋嗎?雖簡陋,卻像胡志明的故居一樣美麗而溫情。

關於妳媽媽的事,別太操心。以前爸爸喝醉時會罵媽媽,但自從妳離開後,爸爸就再也沒罵過她了。

經濟方面,去年勝利輝煌,今年前線肯定會更好。

信末,父雖年老但身體仍然健康。妳安心與生活搏鬥吧。

寫信人:潘登省(Phan Đăng Tỉnh)」

——這字跡是父親的,這些句子是父親的,親切而熟悉。我一遍又一遍地讀,讀到背下來。眼前浮現的是那間破舊、殘破的茅草屋。屋裡什麼都沒有,只有一張泡茶桌、兩張竹床、灶台和兩口棺材疊在一起,用沾滿灰塵的紗布蓋著,是為父親和母親準備的。

我工作的加工出口區有兩萬三千多名工人。三四個月內,每個人都要展現出自己的壞習性和殘酷本性,才能撐得下去。那幾個月,只有父親的信和母親的留言能讓我在夜裡掉淚。

我記得那天凌晨三點,母親叫我和姐姐起床吃地瓜。

我們好高興啊,地瓜熱呼呼、香噴噴,兩姊妹吃得肚子鼓鼓的,根本睡不著。

天剛亮,巷子外傳來奇伯伯的咒罵聲。昨晚他的地瓜田被偷了。他的地瓜田就在我家巷口,他沒指名道姓,只是站在巷口朝我家門廊咒罵。一整個早上,哥哥都躺在床上,一動也不動。自從退學後,他什麼都沒做。

他退學是因為太餓。從家裡到武光高中(Vũ Quang)有八公里,雨天泥巴深及腳踝。去學校得捲起褲管,穿過稻田、池塘、鐵路和墳場,他腿軟走不動,在地瓜田暈倒。村民叫母親帶稀飯來,灌進他嘴裡,稀飯流到哪他就醒到哪。老師來家裡問為什麼不念書,他回答:「我笨,我不想上學。」

為了減少家裡一張嘴,母親讓姐姐永(Vịnh)南下當傭人。人家答應說,工作六年後可以上西貢當工人。

六年過去,永姐已十六歲。雇主的母親瘫痪,她只好再照顧四年。二十歲那年她才離開這個一旦踏出就永不想回頭的地方。

當工人三年後她辭職了,去當美髮店的助理。學會剪髮技術後,她開了間理髮店,生意太好,她又請了兩位員工幫忙。

永姐沒結婚。艱苦的歲月太長,陰影揮之不去,她心裡害怕。

三年後她買了一塊地,蓋了間漂亮的房子,把爸媽接來住,彌補那些年孤苦無依的生活。父母只住了半年就說想回家。這裡太無聊,他們不習慣。他們寧願回鄉下再苦也行。姐姐不讓他們回,他們就以割舌相逼。

爸媽最後還是回到故鄉,繼續過以前那種生活。子女寄回來的錢全存進定存。

父親打電話來說,母親身體很差。永姐關了店回家照顧他們。

母親靠著床邊坐著。每餐父親都要她吃肉吃魚。姐姐夾青菜給母親,父親就撥開生氣地說:「這輩子吃夠菜了,現在還讓她吃菜;她活不了多久了,吃菜飽了還怎麼吃肉?」

母親連續十六天沒排便。她開始喘不過氣、頭痛。父女倆租車帶母親上醫院。回來時醫生交代要給她合理飲食。只吃肉魚不吃青菜,才會變成這樣。

姐姐說,現在要讓母親多吃蔬菜、多喝水。

吃冰淇淋也算喝水。大熱天父親騎車去買冰淇淋。買回兩支,一支六千越盾給母親,一支一千越盾的自己吃。2017年,父親坐在母親身邊吮著一支一千塊的冰淇淋,說自己就喜歡這種。那段貧困歲月從未停止過。姐姐不願讓父母知道她的悲傷。

「我這輩子就當白活了」,她說,當錢最終也無法讓父母脫離苦難。

😀😀😀😀

那年夏天,丈夫與兩個孩子第一次回鄉。

出發前我就和丈夫說好娘家的狀況,免得他回去會太震驚。

「我家像巷口那些賣螺肉米線的小攤那樣。」

「我知道了。」

「我們打開滑門先看一眼,如果你受不了,我們就直接走吧。」

全家坐飛機回去。

迎接我們的是小姨一家與滿滿的親戚。第一頓飯熱鬧得像場婚宴。親友們來看看朋友的丈夫、聽兩個孩子講可愛的南部口音。到晚上十點全家才睡。

仍是兩張竹床。父母睡在廚房旁那張。另一張靠門口的留給我們一家四口。

夏天的單人床太熱,四個人擠不下。丈夫只好把泡茶桌旁的兩張椅子併起來睡。

做完早餐後,丈夫去挑水。挑到第六桶水時,水桶爆裂,結果那晚兩肩痠痛無法再挑水,只好隔天由我接手。

兩個孩子想吃雞肉。我們夫妻走遍整個村莊才買到一隻公雞。

「我們回去吧?」我試探丈夫在娘家待了五天的感受。

「為什麼要回?我快習慣了。」

那天下午我們夫妻倆坐在門外乘涼,眼前是丟荒的空地與剛收割完的稻田。

「以後退休我會回來這裡創業致富。」丈夫說。

我不明白他話中意思。

「妳沒看到嗎?這裡土地這麼多,卻全荒廢了。」

「現在只種一季,不像以前種兩季了。」

「為什麼你爸媽不挖口井?八十歲了還得自己挑水?」

「每家都挑水啊。你問了我才想起來,對欸,我家怎麼沒挖井。」

「妳看整個院子,有哪棵樹是有經濟價值的?回鄉還要去市場買菜,而那些菜還是從別的地方運來的。我今天去了五戶親戚家,沒一戶有自家菜園。」

「對喔。」

「妳不覺得奇怪嗎?為什麼大家要離鄉背井?明明鄉下不缺土地。」

「這裡太極端了,不是太熱就是太雨,什麼都難做。」

「不是這樣的。」

「那是什麼原因?」

其實老人家早就不該那麼苦了。

「大家現在還是那麼苦。幾乎沒改變。」

「這才可怕。這裡有地有勞力,卻缺一個帶頭人。」

夫妻對話像在寫文章,說起來也有點好笑,我忍不住笑出來。

在娘家二十天,丈夫每天睡在兩張椅子拼成的床上。我問他還敢不敢再來,他說會來,但下次要帶吊床,不然太傷腰。

我只要這樣就夠了。至於荒地與外購蔬菜的問題,就不多談了。


簡短書評:
這篇散文以平實卻深刻的筆觸勾勒出越南鄉村家庭的代際變遷與苦難循環,透過父親的一封信引出女兒的回憶與省思,折射出貧困、責任、孝道與土地倫理之間的張力。字裡行間藏著壓抑的愛、無聲的苦與一絲絲難以釋懷的溫情。這不僅是一篇關於越南家庭的故事,也是對全球南方地區普遍貧困與遷移現象的深情注解。


VIẾT THÊM

Chuyện của Hoàn

à ra Hà Nội học đại học thì mình vào Nam. H Người tuyển công nhân đến nhà mình. Bà nói, chỉ cần 500 nghìn đồng phí môi giới. Bà có trách nhiệm đưa vào Sài Gòn làm công nhân tại một khu chế xuất lớn. Lương ổn định trên 500.000 đồng một tháng.

Mẹ không muốn mình đi vì không kiếm đâu ra tiến phí nộp cho bà ta. Mình một mực đòi đi. Mẹ đành phải chiếu lòng, tìm người vay tiền.

Mình đi với thẳng Quang và thằng Nga. Ba đứa cùng lớp tốt nghiệp cấp ba lên chuyến xe đi xa đầu tiên trong dời. Xe chạy đến xã khác đón thêm người cũng là bọn nhìn lớ ngớ như bọn mình. Vào đầu mùa thu, người môi giới về các vùng quê tìm công nhân là những đứa vừa tốt nghiệp cấp ba, chưa thi được vào trường nào học tiếp.

Đến Sài Gòn, bọn mình được biết sẽ làm công nhân giày da. Theo sự phân chia của người môi giới, Quang và Nga làm ở bộ phận đế giày, mình làm bộ phận may. Hai đứa vào hôm nay thì ngày mai đi làm luôn. Mình phải đi học may một tháng.

Mình không có tiến mang theo, bà môi giới cho ứng 150.000 đồng tiến ăn, chỉ tiêu hàng ngày, khi nào nhận lương tháng đầu tiên thì trả.

Ba đứa cùng ở chung một dãy nhà trọ của bà.

Quang và Nga làm được ba ngày thì bỏ. Chúng không chịu đựng nổi mùi hôi thối nồng nặc và không khí nóng bức trong xưởng giày. Bọn tao chấp nhận mất năm trăm, về thôi.

Thấy mình khóc quá vì hoảng sợ phải ở lại một mình, hai đứa nói dối là đi chơi loanh quanh vài ngày rồi quay lại.

Với 150.000 đồng, mình sẽ ăn những bữa cơm thế nào cho vừa một tháng? Không quen ai ở đây, tiền hết là chết đói. Mình quyết định mỗi ngày ăn một bữa. Ăn bữa cơm trưa.


Bữa ăn trưa của mình là hai bát cơm và một bia dâu phụ. Ăn đậu phụ ngân quả thay bằng rau muống. Ngày nào cũng ăn đậu phụ khiến sau này mình bị lên cơn nhức đầu mỗi khi nhìn thấy đậu phụ.

Buổi chiều học xong, đi bộ hai cây số về nhà trọ bụng đói cồn cào. Ăn thêm bữa nữa là phá kỉ luật, là không đủ tiến kéo dài hết tháng. Mình lên giường nằm. Mình nằm sấp. Tự nhủ là chẳng đói, chẳng thấy đói gì cả. Lặp đi lặp lại câu đó mười lần là cơn đói biến mất. Buổi tối nào cũng thế, khi bên kia nhà bà chủ ăn cơm tối thì ở ngoài này mình lại lấp đấy dạ dày bằng câu niệm chú đỏ. Không đói. Chẳng thấy đỏi gì cả.

Học xong một tháng được cấp tờ chứng chỉ nghề, mình được nhận đi làm.

Đi làm.

Ngày đầu tiên:

Kẻng báo giờ ăn cơm trưa. Giống như mọi người, mình chạy thật nhanh đến nhà ăn. Tranh thủ ăn để còn chợp mắt, một người chị nói vậy.

Bước vào nhà ăn cảm giác choáng váng. Những khay cơm đấy tràn. Thịt rau đấy tràn. Muốn ăn bao nhiêu cũng được. Ăn xả láng. Ăn không cần nhìn trước nhìn sau. Vira xúc cơm ăn vừa nghĩ về nhà. Nghèn nghẹn trong lòng. Ước sao các anh, các chị mình còn trẻ để vào đây làm công nhân. Cứ làm rồi đến bữa ăn cơm, không cần lương. Các anh các chị cả đời biết bao giờ mới được đứng trước một khay cơm đầy ắp ủ thể này. Chỉ việc xúc mà ăn không phải nghĩ gì.

Ngày thứ hai:

Mình xin phép đi vệ sinh. Chạy từ lầu ba xuống lầu một, trước cửa nhà vệ sinh cả một hàng dài công nhân đang xếp hàng chờ. Mười phút mới tới lượt mình. Xong, hùng hục chạy từ lầu một lên lầu ba.

- Cô lên đây!

- Trốn việc đi ngủ à?

- Mới vào làm đã giở thủ đoạn.

Đứng ở dầu chuyển, tất cả các cặp mắt nhìn lên. Mình cúi gằm đầu. Li nhỉ nói lời xin lỗi.

Ngày thứ ba:

Lại lên đứng đầu chuyển cắm mặt chịu trận.

- Cô óc chó hả?

- Muốn đuổi việc hay sao mà để lỗi may vậy.

Ở đây chỉ có một thứ tiếng đó thôi. Là tiếng chửi. Kẻ chửi người im hoặc cả hai cùng chửi.

Ngày thứ sáu:

Kẻng báo giờ ăn. Lại ủa chạy. Cầu thang hẹp mà người thì xô đẩy lớp trước lớp sau như cỗ xe ùn ùn về phía trước. Một công nhân nữ trượt chân bị ngã giữa cầu thang, những bàn chân giẫm lên người cô theo đà xô đẩy từ phía sau. Cô gái ngất xỉu. Một tháng sau gia đình vào Sài Gòn, đến bệnh viện đón cô về, cùng một số tiến đến bù việc bị gãy chân không đi làm được nữa.

Mình vẫn duy trì mỗi ngày ăn một bữa. Bữa cơm trưa ở nhà máy cố ăn thật nhiều. Ba bát. Bốn bát. Rồi tới lúc mình ăn được năm bát. Phần ăn cho cả ngày chỉ trong mười lăm phút này.

Tháng lương đầu tiên là 620.000 đồng.

50.000 tiến nhà trọ. 150.000 tiến ứng hôm trước. Tiền điện, tiền nước...

Hỏi đường ra bưu điện gửi về cho mẹ 100.000.

Từ lúc ra bưu điện gửi tiền về cho mẹ, lòng dạ bốn chốn không yên. Đêm nào cũng thao thức băn khoăn không biết mẹ đã nhận được tiến chưa. Cảm giác của mẹ khi nhận được tiền thế nào. Chắc mẹ ngạc nhiên lắm.

Tám ngày đã qua, đoán lúc này tiến đã về đến tay mẹ, mình chay ra bưu điện gọi về bưu điện xã nhờ nhắn cha mẹ mười hai giờ trưa Chủ nhật lên nghe điện thoại con gái.

Mười hai giờ trưa ngày Chủ nhật. Nghe tiếng cha a lô đầu dây bên kia mình òa khóc. Khóc nức nở. Cổ họng nghẹn lại không nói được gì nữa. Cha cũng không nói một câu gì. Buông điện thoại, hết 50.000 đồng -bằng số tiền một tháng thuê nhà trọ. Vậy là vẫn chưa hỏi được cha tiến đã về đến nhà chưa.

Lại nhắn bưu điện xã mười hai giờ trưa Chủ nhật tuần sau cha mẹ ra nghe điện thoại con gái.

Hôm đó cha đi vắng, chị dâu ra. Mình ngại. Hỏi thăm vài câu chuyện ở nhà thì gác máy. Mình không muốn chị dâu biết chuyên gửi tiến.

Sao mẹ không ra nghe điện? Sau này mẹ nhắn, mẹ không biết nghe điện. Đừng tốn tiến vào các cuộc gọi điện.

Mình viết thư cho mẹ. Mẹ ơi, nhớ giữ sức khỏe, đừng lo gì cho con. Cuộc sống con đã ổn định. Ở đây con sướng lắm, không phải như ở nhà... Viết đến câu "ở đây con sướng lắm" hai mắt ầng ậc nước. Bao nhiêu cảnh khổ nhục cứ hiện lên. Vò là thư, viết lại.

Viết đến “ở đây con sướng lắm" lại không ngăn được nước mắt. Lại vỏ lá thư lần thứ hai.

Mẹ mình không biết chữ. Thư về phải nhờ chị hàng xóm đọc. Nghe xong thư con gái, mẹ lại đọc cho chị ấy viết. Chị ấy viết cho mình và mẹ gửi lời nhắn.

Mẹ nhắn, mẹ đã nhận được 100.000 đồng. Biết ở trong đó con sướng lắm mẹ yên tâm. Con tập trung cống hiến cho công việc công ty, đừng nhớ nhà. Ở nhà cha mẹ khỏe mạnh.

Tháng nào nhân lương xong mình cũng ra bưu điện gửi về cho mẹ 100.000 đồng. Mình dặn mẹ hằng ngày phải dùng tiến này mua mắm, mua cả.

Mẹ lại nhờ chị hàng xóm viết thư vào. Tiến con gửi mẹ giữ cho con. Mẹ đã góp lại mua cho con một con bỏ làm vốn sau này.

Mình viết trả lời, mẹ đừng mua bò, con không về đâu, con ở trong này sướng lắm, con không về.

Thư chị hàng xóm, lần này không phải mẹ nhắn mà chị ấy viết riêng cho mình. Toàn bộ tiến em gửi về mẹ đã mua bỏ. Và con bò đã bị ăn trộm mất rồi. Mất bò, mẹ em ôm, khóc suốt cả tuần nay, mẹ nói thương em, bao nhiêu công sức làm việc của em.

Mình không tiếc mất con bỏ. Mình xót thương mẹ.

Chị hàng xóm đi lấy chồng xa, không viết thư hộ mẹ được nữa. Từ đó người viết thư cho mình là cha.

😀😀😀😀

Thư của cha:

"Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Tên tôi là: Phan Đăng Tỉnh

Gửi con gái tên là: Phan Thị Hoàn

Cha viết thư này thông báo tình hình ở quê nhà.

Báo cáo con cha vẫn khỏe như Bác Hồ ngày xưa. Con xa nhà nhớ cha nhớ mẹ thì đã đành nhưng con có nhớ ngôi nhà mái tranh nghèo đơn sơ như nhà Bác Hồ nhưng vẫn rất đẹp và ân tình của ta nữa không.

Về phần mẹ con đừng trăn trở. Trước đây cha say rượu về chưởi mẹ nhưng từ ngày con đi cha không chưởi mẹ nữa.

Về tình hình kinh tế thì năm qua thắng lợi vẻ vang năm nay tiến tuyến chắc càng thẳng to.

Cuối thư cha tuy già nhưng còn mạnh khỏe. Con yên tâm chống chọi với đời.

Người viết thư: Phan Đăng Tỉnh."

Nét bút này của cha. Câu chữ này của cha. Thân thương gần gũi. Mình đọc đi đọc lại đến thuộc. Hiện ra trước mặt là ngôi nhà mái tranh xập xệ toang hoác. Trong nhà không có gì ngoài bàn uống nước, hai cái giường tre, cũi bếp và hai cỗ hậu sự đỏ ròng chồng lên nhau phủ lớp vải màn lấm bụi của cha và của mẹ.

Khu chế xuất mình làm hơn 23.000 công nhân. Qua ba, bốn tháng làm việc, mỗi người phải bộc lộ hết tỉnh xấu và sự tàn bạo thì mới trụ được. Năm tháng ấy chỉ có những lá thư của cha, lời nhắn của mẹ mới làm cho mình rơi nước mắt trong đêm.

Mình nhớ bữa đó ba giờ sáng mẹ gọi hai chị em dậy ăn khoai.

Phấn khỏi quá, khoai nóng ngon quá, hai chị em mình ăn no căng bụng không ngủ tiếp được nữa.


Trời vừa sáng, ngoài ngõ là tiếng ông Kỳ chửi vọng vào. Đêm qua ruộng khoai ông bị bởi trộm. Ruộng khoai ông ngay đầu ngô nhà mình. Ông không kêu tên ai mà cứ đứng ở ngõ nhìn vào hiên nhà mình chửi. Suốt buổi sáng anh trai nằm im trên giường. Từ ngày bỏ học anh chẳng làm gì.

Lí do anh bỏ học cũng vì đói. Con đường ra trường cấp ba Vũ Quang tám cây số trời mưa bùn lên mắt cá chân. Đi học quần xắn lên cao, đi qua cánh đồng, qua

bâu, qua đường sắt, qua bãi tha ma, chân anh bủn rủn bước không nổi. Anh bị xỉu trên ruộng khoai. Người làng gọi mẹ mang cháo loãng ra đổ vào miệng. Cháo trôi tới đâu anh tỉnh tới đó. Thầy giáo đến nhà hỏi li do em bỏ học. Anh thưa với thầy là em học dốt, em không thích đi học.

Để nhà bớt một miệng ăn mẹ cho chị Vịnh vào Nam giúp việc. Người ta hứa ở được sáu năm sẽ cho lên Sài Gòn làm công nhân.

Sáu năm trôi qua, chị Vịnh mười sáu tuổi. Mẹ của người chủ gây chân nằm liệt giường, chị phải ở lại chăm bà thêm bốn năm nữa. Hai mươi tuổi chị mới được rời khỏi nơi mà bước ra đi rồi không bao giờ còn muốn quay trở lại.

Sống đời công nhân được ba năm thì chị bỏ. Chị đi phụ việc cho một cửa hàng cắt tóc gội đầu. Học được nghế cắt tóc. Chị mở cửa hàng cắt tóc, gội đầu. Quản đông khách, chị phải thuê thêm hai thợ nữa mới làm hết.

Chị Vịnh không lập gia đình. Cuộc sống khốn khổ kéo dài ám ảnh. Chỉ sợ.

Ba năm sau chị mua được miếng đất. Xây được nhà đẹp, chị về quê mời cha mẹ vào ở, bù đắp những năm tháng buồn tủi không gia đình. Cha mẹ vào với ở với chị Vịnh được nửa năm thì đòi về. Ở đây buồn quá, cha mẹ không quen. Cha mẹ muốn về quê, sống khổ mấy cũng chịu được. Chị không cho về, cha mẹ dọa căn lưỡi.

Cha mẹ về quê tiếp tục cảnh sống như trước. Số tiến các con gửi về làm sổ gửi tiết kiệm.

Cha gọi điện báo ở nhà mẹ yếu lắm. Chị Vịnh đóng cửa hàng về ở với cha mẹ, chăm sóc cha mẹ.

Mẹ ngồi tựa thành giường. Bữa cơm nào cha cũng bắt mẹ ăn thịt, ăn cá. Chị gắp rau vào bát mẹ là cha gạt ra giận dỗi. Cha nói, mẹ cả đời ăn rau rồi chưa đủ sao; mẹ sống được bao lâu nữa mà bắt mẹ ăn rau; mẹ ăn rau vào no bụng sao ăn được thịt.

Mười sáu ngày mẹ không đi ngoài được. Mẹ lên cơn khó thở, nhức đầu. Hai cha con thuê xe chở mẹ lên bệnh viện. Ra về bác sĩ dặn cần cho bà chế độ ăn hợp lí. Bà ăn thịt ăn cá mà không ăn rau nên thành ra thế.


Chị nói, giờ phải cho mẹ ăn thật nhiều rau và uống nước nhiều.

Ăn kem cũng là uống nước. Cha đạp xe đi mua kem cho mẹ giữa trưa nắng. Cha mang về hai cái kem. Cái kem cho mẹ giá sáu nghìn, kem cho cha loại một nghìn. Năm 2017, cha ngồi bên mẹ mút chiếc kem có giá một nghìn đồng. Cha nói cha thích loại kem này. Năm tháng bần hàn ấy chưa bao giờ chấm dứt. Chị Vịnh không muốn cha mẹ biết mình buồn.

Cuộc đời mình coi như bỏ, chị nói, khi cuối cùng tiến bạc không làm cho cha mẹ ra khỏi được nỗi khổ.

Hè năm đó chồng và hai con lần đầu về quê.

Trước khi về mình đã nói trước với chồng cảnh nhà vợ ở quê như thế nào để anh không bị sốc khi về.

- Nhà em giống như mấy hàng bún ốc bún riêu cua ngoài ngõ đó.

- Anh biết rồi.

- Mình để mở vẻ chiếu vào anh ha, lỡ anh không chiu nổi thì mình vào luôn.

Cả nhà lên máy bay.

Đón gia đình cô út có đông đảo họ hàng con cháu hai bên nội ngoại. Bữa cơm đầu tiên rôm rả, ồn ào như đám cưới. Khách khứa tới xem mặt chồng bạn, coi hai đứa trẻ nói giọng miền Nam dễ thương. Tới mười giờ đêm thì cả nhà đi ngủ.

Vẫn là hai cải giường tre. Một giường cha mẹ ngủ bên bếp. Giường sát ngoài thếm nhà dành cho gia đình mình.

Cái giường đơn, trời mùa hè nóng ơi, bốn người không thể nằm được. Chống mình ghép hai cái ghế ở bàn uống nước lại thành chỗ ngủ.

Làm xong bữa sáng cho cả nhà, chống mình đi gánh nước. Sáu gánh nước thì đẩy bể. Kết quả là tối đó hai vai đau nhức không thể đặt đòn gánh lên được nữa và phải nhường việc đó cho vợ vào hôm sau.

Hai đứa nhỏ đòi ăn thịt gà. Vợ chồng mình đi khắp làng mới mua được một con gà trống.

- Mình về nha anh. - Mình ướm xem phản ứng của chồng sau năm ngày về nhà vợ.

- Sao lại về, anh sắp quen rồi.

Buổi chiều vợ chống ra ngô ngồi hóng gió, trước mặt là bãi bỏ và cánh đồng vừa qua mùa gặt.

- Sau này nghỉ hưu anh sẽ về đây làm giàu. - Chống mình nói.

Mình không hiểu chồng mình nói câu đó với ý gì. - Em không thấy à, đất đai mênh mang mà toàn bỏ hoang.


- Bây giờ người ta lại chỉ cấy một vụ chứ không phải hai như ngày trước đó anh.

- Tại sao cha mẹ không đào giếng để đến gần tám mươi tuổi rồi vẫn phải đi gánh nước hả em?

- Nhà nào cũng gánh nước mà anh. Anh hỏi em mới nghĩ, đúng ha, sao nhà mình không đào một cái giếng.

- Em nhìn xem, cả khu vườn ông bà có cây cối nào mang lại giá trị không? Về quê ngày nào cũng phải ra chợ mua rau. Mà rau cũng cũng nhập từ nơi khác đến. Sáng nay, anh qua năm nhà họ hàng chơi, cả năm nhà đều không có vườn rau.

- Đúng ha.

- Em không thấy vô lí à? Họ đi xa làm gì khi mà ngay quê nhà không thiếu đất làm ăn.

- Ở đây nắng quá nắng, mưa quá mưa, cái gì cũng quá nên làm gì cũng khó.

- Không phải vậy đâu em.

- Không phải vậy thì lí do gì?

Lẽ ra ông bà, cha mẹ đã không phải khổ đến mức vậy.

- Mọi người ở đây giờ vẫn khổ vậy mà anh. Không thay đổi là bao nhiêu.

- Thế mới đáng sợ. Ở đây có đất có sức người. Ở đây đang thiếu người làm mẫu.

Vợ chồng nói chuyện với nhau mà cứ như viết trên giấy, thấy cũng buồn cười, mình kiếm có dừng.

Hai mươi ngày ở quê vợ là hai mươi đêm anh ngủ trên hai ghế nhỏ ghép lại. Mình hỏi chồng còn dám về nữa không. Anh bảo sẽ về nhưng lần sau mang theo võng nằm đỡ đau lưng.

Mình chỉ cần vậy thôi. Còn chuyện đất thì bỏ hoang mà rau phải đi mua mình không bàn đến.

八十塊與一雙夢想的鞋:我們姊弟的升學與選擇記憶

八十塊與一雙夢想的鞋:我們姊弟的升學與選擇記憶


1998年,我考上了三所大學:順化大學(Đại học Huế)、榮市大學(Đại học Vĩnh)、以及社會人文科學大學(Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn)。

在等待放榜的日子裡,我非常焦慮,便問奶奶:「奶奶,要是我沒考上怎麼辦?」奶奶說:「沒考上就明年再考啊。」我又去問外婆:「外婆,要是我沒考上怎麼辦?」外婆答:「你怎麼可能沒考上呢?」——這正是我想聽的話。我追問外婆:「為什麼妳這麼想?」她只說:「你等著瞧吧。」

我嚼了一口檳榔給外婆。她的牙幾乎掉光了,但還是嘴饞愛吃檳榔。牙掉了,睡覺時會發出咻咻的呼吸聲。我常常在她家過夜,半夜醒來望著她熟睡的樣子,聽她沉沉地呼吸,聲音像是鼾聲,傳得老遠。從胃裡散發出來的檳榔氣味,不像是香味,但卻安心。

我又嚼了一口備著放進茶碗裡的檳榔,向外婆道別,心裡踏實多了。

為什麼奶奶不像外婆那樣安慰我呢?奶奶說,看我出門神色低落,她也擔心,怕白費了我這麼努力唸書。

爸爸說,外婆雖然目不識丁,卻非常有智慧,說話得體,沒人挑得出錯。學校裡的年輕老師們來家裡作客,都喜歡跟外婆聊天。他們甚至會刻意設問,只為聽她怎麼回答——她說話直率、誠實、又準確。

有一次外婆來串門,奶奶笑著到門口迎接。奶奶有個妹妹,跟孩子們去了南方後就失聯幾十年,音訊全無。奶奶想念妹妹,但當時沒有電話。外婆的陪伴,就像是老人的慰藉。

那天我去煮綠茶,倒了兩杯熱茶,不知道先敬誰。我想,先敬誰就代表比較偏心,但我對奶奶和外婆的感情是一樣的。於是我兩手各端一杯,一起端出。

外婆提點我:「茶那麼燙,小心灑了。下次要敬長輩,要雙手端才有禮貌。」奶奶說:「她平常才不這樣,只有對我和她外婆才會特別用心呢。」

媽媽把三張錄取通知書收進箱底,說:「以後拿來給妳的孩子們當證明。你們媽媽以前,可是偏遠山區的學生啊。沒這張紙,恐怕他們不會相信。」

我想,媽媽可能比我還高興我考上大學。至於我,如果沒考上肯定會很難過,但既然考上了,卻沒有太大感覺。

姊姊Thắm問我:「妳打算念哪一所?」
我回答:「河內(Hà Nội),當然是河內。妳怎麼這麼問?」
很多人都這麼問過我。

那一年,是越南首次實施政策:報考師範類科的大學生可免學費,畢業後國家包分配工作。

免學費當然很重要,但我並不關心這件事。

Huy(弟弟)說,他已經經歷兩年異地求學的艱辛,很懂得貧苦孩子在外讀書的心酸,那些說不出口的委屈。

他說:「妳要是去河內唸書,媽一整個月可能都不敢買一斤肉。」

「別浪漫了,Hà。當個語文老師就很好了。」

我忍不住淚流滿面。Huy才十年級,怎麼想得那麼多?是因為早早就離家念書,還是因為從小過著盼客上門才能吃飽飯的日子,才讓他過早失去了少年該有的天真?

我緊握著他的手說,我決定在榮市(Vĩnh)讀書。Huy的臉馬上綻放笑容。

他描繪著我們姊弟倆一起租房同住的畫面:他去做家教,我爭取獎學金。他現在就想當家教,但沒有腳踏車。媽媽承諾只要我念Vinh,就把Mùi姨的Mifa腳踏車給我們用。

那天下午,Huy把腳踏車擦得乾乾淨淨,調整鏈條、上油、調車座、連輻條也一一擦拭。

我們一起去Thỉ家的地瓜田。回到巷口時,Huy握著我的手,似乎還怕我動搖。

晚上停電,我們坐在家門口的石階上。Huy拉我去茶園乘涼,他說他夢想有雙鞋子,可以上課也可以上體育課跑步穿。雖然只是夢想,但我們家哪來那麼多錢想買就買?

為什麼Huy會覺得家裡困難?我卻不這麼認為。因為我知道媽媽在箱子裡藏著錢。那個錢包每個月都會悄悄添些錢。我做家事是因為快樂,不是因為窮。從沒想過家裡窮到無法讓我去河內唸書。

隔天醒來,我對Huy說:「我決定了,我要去河內,不念Vinh了。」

我接著說:「就算念Vinh,兩年後我們還是得分開。倒不如我先去,兩年後你來,我們再一起生活。」
Huy說:「這決定真讓人心痛。」

Mùi姨的腳踏車又被收回房間吊起來。

爸爸話不多,所以他說的每句話我都記得。

有次他說:「我們家好像沒人特別出色,都只是中等偏上。」

當年Khánh哥拿了全國物理競賽的獎,在升旗時由校長宣布。新來的年輕老師Bình發現他有天賦,特別培養。

Huy跟Khánh哥的弟弟Đồng是同班同學。有次去Đồng家玩時帶回一本《兒童數學》(Toán học tuổi thơ)和一本數學進階書。那時他才知道課本以外,還有這種參考書。

他愛不釋手,每晚點著油燈解題到兩點。外婆晚上出來上廁所看到他還沒睡。那年暑假,他天天去Đồng家學習。後來跌倒摔斷手,Đồng就把書拿來他家讀。

以前Huy跟Hiệu天天打鬧,但那個暑假後兩人都變了。Hiệu趕牛放牧也帶著書在田裡做題。我在田裡收糞時,看到Huy坐在田埂上,轉著筆,面前放著草稿紙和《兒童數學》。

爸爸去參加鄰村一場葬禮,Nam老師剛點香對他耳語:「Huy得了全縣數學第一名喔。」老師一邊還拿著三炷香沒插上。

爸爸回家請Nam老師來吃飯。他說了一句很有哲理的話:「投資教育,是最有回報的。」這位退伍返鄉的貧窮軍人,靠孩子的成就得到安慰。

後來Huy又拿了省賽第一,入選全國隊,進了重點學校。

但最激動人心的,還是那天得知Huy初次拿下縣賽第一名的消息。

媽媽拿出好酒,我生火炒花生,姊姊Hằng到院子撿來幾條黃瓜切成小盤。話題全是孩子的學業。Nam老師講評這次競賽的過程,老師們如何被Huy的表現驚豔。全家人坐在床上,爸爸媽媽和老師坐桌邊,老師偶爾喚孩子出來叮囑幾句。

他說:「這孩子將來會有出息。」Huy三年級時曾陪爸爸去峴港,一位伯伯也說過:「這孩子將來不得了。」

提到Nam老師,我又想起了Huy和Hiệu熱血唸書的日子。

爸爸找人把粗糙木板釘成一張大書桌,五姊弟共用,放在窗邊——那窗只比兩塊磚大。油燈一盞不夠亮,媽媽又買了一盞。Hiệu的尺、Huy的圓規、Huân的書堆。Huân才二年級,讀過的書比他人還高。

做選擇的時候,從來沒有「快樂」這回事。因為選擇之後,一切責任都要自己承擔。

Huê姨對媽媽說:「讓孩子實現夢想吧,經濟困難我來幫。」

媽媽鬆了口氣。她不只擔心學費,更怕我念文學系後畢不了業、找不到工作。

確定我要去河內後,爸爸說:「雖然我建議你讀Vinh,但其實我內心希望你去河內。我有幾位戰友在那裡,可以介紹你認識,好讓你不孤單。」為了女兒,他聯繫多年沒見的老友。

媽媽送我上學時哭得像是送女兒上戰場,不知何時歸。

出發前一晚,我告訴奶奶:「Huy想要一雙既能上學又能跑步的鞋。」Huy要去Vinh時,奶奶拿出八萬盾整給他買夢寐以求的鞋。一雙棕色鞋子,看起來稍大。那年過年回家,看見Huy穿新鞋,走路特別有精神。


簡評
這篇回憶文細膩動人,透過一個少女的升學選擇,串連起家庭裡的愛、貧困下的韌性,以及一代人對教育的殷切寄託。文章筆調誠實又深情,尤其在姊弟情感與長輩智慧的描寫上,極富真實感與鄉土氛圍,讓人在閱讀後久久難忘。

《離家的年歲,與記憶中的故鄉斜坡》

十八歲那年離開家。腳步踏上了與家鄉不同的陡峭曲折之坡道。

如今,家鄉的斜坡也變了樣。二〇〇〇年,父母得意地說:「孩子們啊,現在已經沒有坡了。」

現在回家,只是一條小徑,兩旁的菜園如今成了深谷。買下Chắt伯(bác Chắt)家菜園的人叫來卡車,把泥土挖走拿去賣。

Chắt伯再也沒回來。他已經沒有家鄉了。他也不覺得悲傷。

獨自一人靜靜地走在Động Am小路上。四月的夏日正午,成群蝴蝶在這無人踏足的小徑上翩翩起舞,讓人不寒而慄。Động Am是否能永遠保留這樣的幽暗,還是終有一天將面目全非,被無可抵擋的破壞吞噬?

父親正快步下坡而來,如奔跑般。他揮手要我在坡下等他。父親擁抱我。給我一張兩百元鈔票。那是父親的兩百元,還有Huy老師給我的兩百元。父親抽噎不已,肩膀隨著嗚咽的節奏顫抖。一週後我去了河內,在上課途中收到了父親的來信。這封信我至今仍保留著,但字跡早已被淚水模糊。父親那封信,是寫給我,還是寫給Huy

Huy正從坡下跑上來,喊著:「媽媽!去買米!」每隔幾週會有一輛米車抵達,店家就能以較便宜的價格進貨。已經快上課了。他一叫完媽媽就飛奔回校,劉海飄動。媽媽在找布條,媽媽還要幫腳踏車打氣。等媽媽趕到時,米車早已離去。

陰雨綿綿的坡下夜晚,Lài推著車,後頭載著一整棵香蕉樹,要餵朋友家的豬。香蕉樹很重,天雨路滑,Lài連同推車一同摔倒在坡中段。她走進庭院,低聲地在廚房門口喊:「Huy!出來幫忙一下。」

Hằng姐奔下坡來,Huy則往上跑。我在這,我正笑著,穿著蓬鬆的紅色外套。

一輛又一輛的土石車,把整座坡道運走了。也一併載走了我那段親愛而辛苦的童年。

舊時坡腳下的路叫做khe Mụ Rong。對Xóm Trùa村的人來說,人生最後一次經過這條小溪,就是前往Động Mận的那趟路。Chắt伯南遷之後,記憶也隨之逝去。記憶還在尋找那棵傳說有鬼的榕樹,記憶走到田埂邊、走過Lối Son坡道、順著坡道走向Bến Nại

沒有一張照片記錄那條坡道。父親的女兒只能用記憶把它畫下。


簡評:
這篇作品以細膩、沉靜的筆觸書寫家鄉的地景與變遷,也是一段家族記憶與情感的追溯。文中穿插著人物名字(如ChắtHuyLài等),不僅讓場景具象,也營造出歲月無聲流逝的感懷。從父親的淚水到村民們的生活瑣事,再到無聲消失的童年斜坡,作者將鄉愁書寫得既真摯又詩意,極具越南鄉土抒情風格。





Năm 1998, mình thi đỗ ba trường đại học. Đại học Huế, Đại học Vĩnh, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Trong thời gian chờ kết quả thi, mình lo lắng không vên. Hỏi bà nội, bà ơi con mà không đỗ thì sao? Bà bảo, không đỗ sang năm thi tiếp. Hỏi bà ngoại, bà ơi con mà không đỗ thì sao? Bà bảo, con mà không đỗ thì ai. Đó là câu mình muốn nghe. Mình hỏi lại bà ngoại câu nữa, sao bà nghĩ vậy. Bà trả lời, rồi mà xem.

Mình nhai cho bà miếng trầu. Răng bà rụng gần hết nhưng thèm trấu. Răng rụng gần hết, khi ngủ tiếng thở của bà phào phào. Mình ngủ đêm nhà bà lo nhất đang ngủ tỉnh giấc nhìn sang bà ngủ say. Giấc ngủ sâu, tiếng thở phào phào nghe rõ và vang xa như tiếng ngáy. Mùi trầu phả ra từ dạ dày không phải là mùi trấu thơm.

Nhai thêm miếng nữa để sẵn trong bát uống nước chè, mình yên tâm chào bà ra về.


Sao bà nội không trấn an tỉnh thần cháu như bà ngoại? Bà nội trả lời, thấy con đi thì về mặt buồn bà cũng lo. Bà tội công con học.

Cha nói, bà ngoại không biết chữ nhưng thông thái, ứng xử không ai trách được một câu. Các thấy cô giáo trẻ ở trường mình đến nhà chơi thích nói chuyện với bà ngoại. Họ cố nghĩ ra những câu hỏi cốt để được nghe bà trả lời. Họ thích nghe những câu đối đáp nhanh của bà. Đơn giản, chân thật, chính xác.

Bà ngoại ra chơi, bà nội ra sân đón, mừng vui thật lòng. Bà nội có cô em gái từ ngày theo các con vào Nam tới nay mấy chục năm rồi chưa có dịp về. Chị em cũng không có cách gì liên lạc. Lòng bà nhớ thương và mong muốn gặp em nhưng ngày đó điện thoại chưa có. Tình yêu thương người già có bà ngoại ra sẻ chia.

Bà ngoại ra chơi, mình đi om chè xanh. Hai bát nước chè xanh rót ra mình không biết mời ai trước. Minh nghĩ rằng mời nước người nào trước là quỷ người đó hơn. Tình cảm mình dành cho bà nội và bà ngoại ngang nhau nên cùng lúc hai tay mình bưng hai bát nước.

Bà ngoại góp ý, bát nước chè nóng bưng vậy lóng ngóng đổ thì sao, lần sau đưa nước mời người lớn tuổi là phải hai tay. Bà nội bảo, chỉ với tôi và bà nó mới làm vậy thôi chứ con bé này có ý lắm.

Mẹ cất ba tờ giấy báo trúng tuyển vào đáy rương. Cất đây sau này làm bằng chứng với các con của con.


Đấy, mẹ ngày xưa, học sinh vùng sâu vùng xa đấy. Không có cái giấy này chưa chắc chúng nó đã tin.

Có lẽ là mẹ vui mừng nhiều khi mình đỗ đại học. Còn mình, nếu trượt chắc là đau khổ lắm, nhưng đỗ rồi sao không có cảm giác gì.

Chị Thắm hỏi mình sẽ học trường nào. Hà Nội. Đương nhiên là Hà Nội. Sao chị lại hỏi vậy?

Nhiều người cùng hỏi câu đó.

Bởi vì đó là năm đầu tiên có chính sách sinh viên học trường sư phạm không phải đóng học phí và được lo việc làm khi ra trường.

Không phải đóng học phí là một lí do quan trọng. Mình chẳng quan tâm tới chuyện đó.

Huy nói, Huy đã trải qua hai năm rồi, Huy hiểu lắm cảnh con nhà nghèo đi học xa. Nhiều nỗi tủi thân không nói ra được.

Huy nói, Hà ra Hà Nội học thì có lẽ cả tháng mẹ không dám bỏ tiền ra mua một cân thịt.

Thôi Hà đừng lãng mạn. Hà làm cô giáo dạy Văn là được quá rồi.

Nước mắt mình lăn trào. Mới lớp mười mà sao Huy đã suy nghĩ như vậy? Vì sớm đi học xa nhà hay vì sống lâu trong cảnh nhà chỉ mong có khách đến để được bữa cơm no mà em mình đánh mất đi sự vô tư tuổi thiếu niên?

Mình nắm chặt tay Huy, nói rằng sẽ học ở Vĩnh. Khuôn mặt Huy lúc đó vui lắm.

Huy vẽ ra cảnh hai chị em thuê phòng trọ ở chung. Huy sẽ đi làm gia sư, mình phấn đấu học bổng. Bây giờ Huy muốn đi làm gia sư nhưng không có xe đạp. Mẹ hứa nếu mình học ở Vinh sẽ cho hai chỉ em chiếc xe đạp mifa của o Mùi.

Buổi chiếu Huy mang chiếc mifa ra lau chùi. Căng lại xích. Tra dầu vào xích. Chỉnh lại yên. Huy lau ki càng từng chiếc tăm xe.

Hai chị em sang nhà chủ Thỉ ăn khoai. Buổi chiều lâng lâng. Về đến ngõ, Huy nắm tay mình trấn an như vẫn sợ mình đang suy nghĩ chưa yên.

Tối đó mất diện. Mình và Huy ngồi ở thềm nhà. Huy rủ mình ra ngoài vườn chè ngồi cho mát. Huy kể ước muốn có một đôi giày vừa đi học vừa chạy được thể dục. Là ước muốn vậy thôi nhưng nhà mình lấy đâu tiến mà thích gì mua nấy.

Tại sao Huy lại nghĩ nhà mình thiếu thốn? Mình thì không nghĩ vậy. Vì từ rất lâu rồi mình biết mẹ có một nơi giấu tiến. Số tiền không biết là bao nhiêu nhưng tháng nào cái ví để ở rương thứ ba đó luôn được cho thêm vào. Mình làm việc nhiều vì thấy vui chứ không phải thôi thúc bởi đói nghèo. Chưa khi nào mình nghĩ nhà nghèo khổ tới mức cha mẹ sẽ nặng gánh nếu mình đi học ở Hà Nội.

Sáng hôm sau ngủ dậy, mình nói với Huy, dứt khoát và quyết liệt: Ra Hà Nội. Không học ở Vinh.

Mình nói tiếp, nếu học ở Vĩnh thì mình cũng chỉ ở được với Huy có hai năm. Giờ mình ra trước, chờ hai năm nữa Huy ra rồi ở với nhau sau. Huy bảo, tỉnh gì mà xa thế.

Chiếc xe mifa của o Mùi lại mang vào buồng treo.

Cha ít nói. Vì thế cha nói câu gì mình cũng nhớ.

Một lần cha nói, nhà ta chẳng có ai học nổi bật lên nhỉ, cử nhàng nhàng tiên tiến.

Hối đó có anh Khánh đạt giải học sinh giỏi quốc gia môn Vật lí. Giờ chào cờ thấy hiệu trưởng báo tin. Cô Bình giáo viên trẻ vừa về trường đã phát hiện ra anh Khảnh và bồi dưỡng.

Huy học cùng lớp với Đồng, em trai anh Khánh. Huy sang nhà Đống chơi mang về nhà bộ Toán học tuổi thơ và một cuốn sách Toán nâng cao anh Khánh mang về từ đợt đi bồi dưỡng. Bấy giờ Huy mới biết tới những cuốn sách toán tham khảo ngoài sách giáo khoa.

Huy đọc say sưa. Đèn dầu chong đến hai giờ sáng giải

toán. Bà dậy ra vườn mấy lần thấy cháu vẫn chưa ngủ. Suốt mùa hè năm đó, Huy sang nhà Đồng học chung. Huy bị ngã, gãy tay, phải băng bỏ, Đồng mang sách sang nhà học với Huy.


Trước đây không ngày nào Huy và Hiệu không cà khịa đánh nhau. Từ sau mùa hè đứa nào cũng đổi khác. Hiệu lùa bò ra đồng mang theo sách vở làm bài toán. Mình ra đồng góp phân thấy Huy đang ngồi trên gò Ngã Hai, tay xoay bút, trước mặt là cuốn vở nháp và tập Toán học tuổi thơ. Lùa bò về nhà, ăn cơm xong, hai đứa lại giải toán.

Cha đi đám tang một người ngoài Xóm Làng. Thầy Nam đang thắp hương. Thằng Huy được giải nhất Toán huyện rồi nhé, thấy khom người, nói thấm vào tai cha. Khi nói, tay thấy vẫn cầm ba que hương đang cháy. Thấy cha, thấy phải báo ngay tin mừng mới quay lại thắp hương.

Cha mời thấy tối qua nhà chơi. Cha nói một câu đấy triết lí, đầu tư vào giáo dục là có lãi nhất. Người linh nghèo giải ngũ về quê hương có chuyên học hành của con làm niềm an ủi.

Rồi thì học sinh giỏi tỉnh. Đội tuyển quốc gia. Rồi trường chuyên lớp chọn.

Nhưng không niềm xúc động nào bằng niềm xúc động ngày đầu tiên được thấy Nam bảo tin Huy được giải nhất môn Toán huyện.

Mẹ đưa ra chai rượu ngon, mình nhóm bếp rang mẻ lạc, chị Hằng ra vườn mót những quả dưa chuột chẻ vừa một đĩa. Đề tài chuyện trò không ngoài chuyện học hành của các con. Thấy Nam kể lại chuyện chấm thi học sinh giỏi đợt này đã làm cho các giáo viên bất ngờ đến thế nào. Năm chị em với bà ngồi ở giường. Cha mẹ và thầy ngồi bên bàn. Thỉnh thoảng thấy gọi một đứa ra nhắn nhủ vài câu. Thấy đánh giá Huy cao nhất. Thằng này sau rồi làm to. Năm học lớp ba, Huy vào Đà Nẵng với cha, một bác cũng nói: thằng bé này sau làm to.

Nhắc đến thấy Nam, gợi nhớ trong mình về những năm tháng say mê học hành của Huy và Hiệu.

Những tấm gỗ xù xì cha nhờ người đóng lại thành cái bàn học chung cho năm chị em. Bàn học đặt ngay cửa sổ bé bằng hai viên gạch táp lô đặt lệch nhau. Đèn dầu một cái không đủ sáng, mẹ phải mua thêm cái nữa. Thước này của Hiệu, compa này của Huy và đống sách truyện này của Huân. Học lớp hai, số sách truyện Huân đã đọc xếp cao hơn người nó.

Chẳng có gì gọi là vui khi người ta phải lựa chọn. Bởi vì, chính mình sau đó sẽ phải chịu trách nhiệm.

Dì Huê nhắn với mẹ, cứ cho cháu nó thỏa nguyện ước mơ, khó khăn về kinh tế em giúp.

Mẹ bớt được phần nào áp lực. Điều mẹ nghĩ nhiều không chỉ là chuyện học phí. Mẹ lo học trường đại học khoa Văn ngoài Hà Nội mông lung quá, ra trường sẽ đi làm gì, có xin được việc không.


Khi biết mình đã chắc chắn lựa chọn rồi, cha nói, động viên con học Vinh nhưng trong lòng cha muốn con ra Hà Nội. Ngoài đó cha có vài người bạn trước cùng đơn vị, cha sẽ dẫn con đi gặp các bác cho con có nơi đi lại. Những người bạn hai mươi năm rồi chưa gặp. Vì con gái, cha tìm cách liên lạc.

Mẹ khóc tiễn con gái đi học như tiễn con ra chiến trận không biết ngày về.

Đêm trước ra Hà Nội mình nói với bà nội là Huy đang ao ước có đôi giày vừa đi học vừa chạy được thể dục. Huy ra Vinh, bà đưa cho tám mươi nghin vra tròn tiền mua một đôi giày như mơ ước. Đôi giày màu nâu, để to, Tết đó, về nhìn Huy đi đôi giày mới thật phong cách.


*****

Mười tám tuổi rời khỏi nhà. Đặt chân vào những con dốc chênh vênh khúc khuỷu khác con dốc quê nhà.


Dốc quê nhà bây giờ cũng đã khác. Năm 2000, cha mẹ khoe giờ hết dốc rồi các con ơi.

Lên nhà bây giờ là một lối đi nhỏ, hai bên vườn giờ thành vực sâu. Người mua lại khu vườn nhà bác Chắt kêu xe tới xúc đất bán đi.

Bác Chắt không trở lại. Bác không còn quê hương. Bác không biết buồn.

Một mình bước lặng giữa lối Động Am. Trưa hè tháng Tư đàn bướm rợn ngợp trên những lối đi không dấu chân người. Động Am có giữ được mãi âm u này không, hay một ngày nào đó trở về tan hoang trơ trụi bởi những tàn phá không gì cưỡng nổi.

Cha đang bước như chạy trên dốc xuống. Cha giơ tay vẫy con đứng đợi dưới. Cha ôm con. Một tờ hai trăm của cha. Một tờ hai trăm cô giáo lớp Huy gửi cho con. Cha nấc lên từng hồi. Vai cha run lên theo nhịp. Một tuần sau ra Hà Nội, giữa giờ học, con gái nhận được thư cha. Lá thư con vẫn giữ đây nhưng chữ đã nhỏe đi vì nước mắt rơi quá nhiều. Cha viết cho con hay là viết cho Huy.

Huy dang chạy dưới dốc lên, gọi mẹ ơi đi mua gạo. Vài tuần có một xe gạo về nhập cho các quán rẻ hơn vài giá. Đã muộn giờ vào giờ học. Gọi mẹ xong con trai ngoan chạy bay tóc trán quay lại trường. Mẹ tìm dây lai, mẹ đi bơm xe đạp. Mẹ lên đến nơi xe gạo di mất rồi.


Dưới dốc tối mưa, Lài đẩy xe chở đằng sau cây chuối cho lợn nhà bạn. Cây chuối nặng, trời mưa trơn ướt, Lài và xe đổ kềnh giữa lưng chừng dốc. Lài vào sân gọi khẽ ngoài của bếp, Hà ơi Huy ơi ra dỡ.

Chị Hằng chạy xuống, Huy chạy ngược lên. Em đây, em đang rạng cười, em mặc áo khoác đỏ phùng phình.

Những xe đất chở con dốc đi. Chỏ đi khúc tuổi thơ thân thương khó nhọc.

Đường dưới chân dốc xưa có tên gọi khe Mụ Rong. Khe Mụ Rong đời người dân Xóm Trùa ai cũng đi qua lần cuối cùng để ra Động Mận. Bác Chắt vào Nam trí nhớ giã biệt người. Trí nhớ đi tìm cây đa có ma, trí nhớ đi ra bờ ruộng, đi ra dốc Lối Son xuôi về Bến Nại.

Không có bức ảnh nào về con dốc. Con gái của cha vẽ lại bằng kí ức.

養牛十年:一頭小牛的死亡與一個家庭的記憶

《養牛十年:一頭小牛的死亡與一個家庭的記憶》


養牛的日子持續了十年。從 1990 年傍晚父母牽回家的一頭小牛,到胡安(Huân)念完九年級時牛棚中最後一頭小牛離去。

這十年間,家中最多時養了九頭母豬、五頭牛,還耕種了十三畝稻田。

勞動力是奶奶、父母,以及五個孩子。

放牛是輝(Huy)和曉(Hiệu)的工作。照顧牛則是全家人的事。

乍聽之下,放牛似乎簡單:把牛趕到草地上,黃昏再趕回牛棚。牛吃草,人則悠閒地坐著躺著,或與其他放牛的小孩玩遊戲。

這麼放也行,但牛會瘦,不長肉。

要讓牛肥壯,就得動腦筋想辦法讓牠吃飽。輝和曉的方法是尋找尚未有牛啃過的優質草場,把牛趕去吃。

最好的草地常在稻田邊。但那是禁止放牛進入的區域。因此他們邊讓牛偷吃邊提防巡邏員出現。被抓到,牛會被趕回巡邏員家。父親不好意思出面,只好每次都由母親低聲下氣地去人家家裡討牛回來。那位住在Cựa Ca的巡邏員每次抓到偷吃的牛,不是抓牛,而是鞭打放牛的小孩。曉曾被他的竹鞭抽得鑽心地痛。後來那位巡邏員上門買酒,母親要曉打招呼,曉卻一臉陰沉。他假笑著說,現在小孩都這樣,見到大人也不打招呼了。

冬天,每天都要割草給牛吃。坐在教室裡,眼睛盯著黑板,腦袋卻想著今天下午該去哪割草。田邊的草都被割得光禿禿的。班上的女生一下課就趕回家,隨便扒幾口飯後背著籃子到Lợi家集合。我們村沒草就去隔壁村。每人躲在田埂邊,快速割草。動作太快、太生疏,手常割傷。割破一根手指,就撕下帽帶綁緊,接著下一根又割傷。割得深了,只好爬著去找藏在什麼地方的Lợi,她幫我找來山莓嫩芽,嚼碎敷在傷口上。有好一段時間,我總有一根手指包著布條,發臭又濕黏。

草滿滿地塞進籃子,一直到挑擔的橫木頂端。重得讓肩膀都快塌了。陡坡濕滑,腳趾要緊扣住牛蹄留下的腳印,才不會跌倒。奶奶總在巷口等著,看見我整個人快被草埋住,總是讚不絕口。

每個孫子都渴望奶奶的稱讚。得讓牛吃得飽,割滿滿的一擔草回家才能讓奶奶誇。輝和曉把牛趕到家門口,大喊一聲「奶奶!」奶奶早站在牛棚門口。她拍拍牛肚子說:「哎呦,牛吃太飽了,快要長翅膀飛起來了!」這句「牛要長翅膀了」幾乎天天說,我們卻怎麼聽都不膩。奶奶的話就像神奇的靈藥,治癒辛苦一整天的我們。晚上她躺在輝與曉中間,夾在稻田與牛的氣味之間。

有一天暴雨傾盆,輝心疼牛沒吃草,跑到Hương Châu田去割草。他穿著雨衣,扛著奶奶剛織好的藤擔,在茫茫雨中一個人割了一下午。正準備扛回家時,巡邏員現身。輝不知道Hương Châu剛發布禁令,外村人不能來割草。草沒了,擔子和刀也被沒收。想到牛今天下午會挨餓,他垂頭喪氣地回家。奶奶安慰他,說會再織新擔子,並去Trọng姨家抱些稻草回來給牛吃。

若說放牛有一絲浪漫,大概就是晴天的午後。把牛放在Ngã Hai草地,自己爬上小丘,鋪開雨衣躺下,望著藍天飄過的白雲出神。Ngã Hai是廣闊的草地,各村的牛都在集市日趕來放牧。小丘下是一片濕地,濕地那頭是鐵道。火車經過,就知道現在幾點。這是放牛孩子們難得的清閒時光。

對胡安來說,童年最美好的記憶,就是在Ngã Hai放牛的日子。可惜,最後帶給他傷痛的人竟然是我。

那是一頭剛六個月大的小牛死了。小牛死在我無知的錯誤裡。

牠毛色金黃,額頭與尾端都有白點。人人見了都誇:這母牛到底吃什麼,怎麼能生出這麼漂亮的孩子?胡安每天陪小牛去田裡,拔給牠吃的是稀有的“cỏ rấy”(脂草)。聽說這草含脂肪,牛吃了能養得胖。不知是否真如此,這小牛長得圓滾滾,像畫中走出來的模樣。牠一見胡安與曉就跑過來。

「誰來啦?」曉問胡安。

「不知道。」

「是小牛啊。」

「牛怎麼能說『誰』?」

「牠是你朋友嘛。」

小牛是朋友,是寶貝弟弟。牠常常晚上自己跑進屋簷下睡覺。胡安做完功課,總要去摸摸牠、跟牠說幾句話,才安心入眠。

大水季節不能放牧,牛群被趕進Bãi Mua草場。我平常不放牛,那天因為Bãi Mua靠近Lài家,就自告奮勇去放牛,順道去Lài家玩。

Lài約我一起刨木薯來做糕點。我們在園子裡選了些小木薯,拿去磨粉、蒸糕,折騰了大半下午。吃完出來,剛好趕上把牛群趕回家。

回家路上,春哥看著我們家的小牛問:「這頭牛怎麼肚子鼓鼓的?」
我答:「牠吃飽了呀。」

「牠哪有吃什麼?我看牠整個下午都躺著。」

我回:「就是因為飽了才躺著呀。」

我還大聲跟全家炫耀,說這頭小牛今天飽得連吃都不用吃就飽了。大家沒多想。我趕著母牛回牛棚,上鎖,進屋睡覺。

夜裡聽見母牛哞哞叫了一整晚。媽媽對爸爸說母牛發情了,明天去借配種公牛。牛還在咆哮,還傳出撞門聲。大雨夜裡,大家在被窩裡都睡得沉沉的。

隔天一早,爸爸叫醒我,問昨天小牛有沒有什麼異狀。我跟著他到牛棚。小牛肚子漲大,幾乎是仰躺著,氣息奄奄。母牛探出頭,鼻尖貼著倒在門邊的小牛。母子倆都滿臉是淚。整夜母牛在求救,卻沒人聽見。

牠中了重風寒。爸爸去找老薑與柚子皮,燒熱放牛旁熏蒸。沒用了。我們雖然養牛,卻從未想過牛病時該如何照料。

爸爸打開牛棚門,讓母牛出來送小牛最後一程。小牛雖已停止呼吸,眼淚卻還在流。牠不會說人話,只能用淚水與母親告別。

胡安衝出屋,緊抱著小牛痛哭失聲。他撫摸著那如絲綢般柔滑的皮毛。洪水季停電、油燈也沒油了,胡安沒像平常那樣去找小牛,也沒人發現牠沒回來睡。

人們來家裡宰了小牛。胡安翹課,一個人坐在屋簷下為小牛哭號。他只會哭,沒有責怪任何人。

幾天後,爸爸對我說:「這頭小牛死後,不知道為什麼我反而感覺一身輕。」

「為什麼呢,爸?」

「因為這段日子我們家太平靜了,我總怕會有什麼不好的事發生。這小牛太美了。牠承擔了厄運,保佑了我們全家。」

爸爸總是這樣。不管發生什麼事,他總能找到讓自己心安的方法。


書評:
這篇回憶錄以細膩的筆觸刻畫出一段關於家庭、勞動與失落的童年經歷。牛隻不只是牲畜,更是家庭成員、童年玩伴與情感寄託。文章以一頭小牛的死亡為核心事件,展現出一個農村家庭的愛與無知、努力與無力,也反映出在資源匱乏中人們如何以柔韌與信念支撐生活。父親最後的那句話尤其動人,將超自然信念與現實無奈交織,讓人久久難忘。


Việc nuôi bò kéo dài mười năm. Từ con bê cha mẹ dắt về buổi chiếu năm 1990 cho đến khi bản đi con cuối cùng trong chuồng vào năm Huân học xong lớp chín.


Trong mười năm đó có những khi nhà nuôi chín con lợn nái, năm con bò và cấy mười ba sào ruộng.


Nhân công là bà nội, cha mẹ và năm đứa con.


Chăn bò là công việc của Huy và Hiệu. Chăm bỏ thì việc chung cả nhà.


Chăn bò, nghe qua đơn giản, là lùa bò ra đồng cỏ, hết ngày thì lùa bò về chuồng. Bò gặm cỏ còn người nằm - ngồi nhởn nhơ hoặc tham gia đủ các trò chơi của bọn trẻ con trên đồng bãi.


Làm vậy cũng được nhưng bỏ gầy còm, không lớn.


Muốn bò béo tốt phải luôn nghĩ cách làm thế nào cho bỏ no. Cách của Huy và Hiệu là tìm những bãi cỏ tốt, chưa con bỏ nào đụng mõm vào, xua bò lại ăn.


Bãi cỏ tốt là ở các bờ ruộng lúa. Nhưng đó là chỗ cầm bỏ được vào ăn. Vậy là vừa dắt bò ăn kẹ vừa phải canh chừng xem có bảo vệ dạo quanh cánh đồng không. Bảo vệ tóm được, bắt bò về nhà họ. Cha ngại việc xin xỏ nên lần nào bỏ bị bắt mẹ cũng phải chường mặt đến nhà người ta xin về. Ông bảo vệ đồng Cựa Ca mỗi lần bắt được bỏ ăn kẹ, ông không bắt bỏ mà đánh người chăn bỏ. Một lần Hiệu bị vụt roi tre đau điếng. Sau này ông lên nhà mua rượu. Mẹ bắt chào ông nhưng mặt Hiệu lầm lì. Ông cười giả lả, con nít giờ thế cả, gặp người lớn có chào hỏi gì đâu.


Mùa đông ngày nào cũng đi cắt cỏ cho bò. Mình ngồi trong lớp học mắt nhìn lên bảng nhưng đầu quẩn quanh suy nghĩ chiều nay cắt cỏ ở đâu. Ngày nào cũng cắt cỏ các bờ ruộng trụi trọc. Đám con gái trong lớp mong nhanh hết giờ học về nhà và vội bát cơm là mang gảnh tới tập trung tại nhà Lợi. Làng mình hết cỏ lại sang làng bên. Mỗi đứa trốn mình dưới những bờ ruộng liếm liếm thật nhanh. Nhanh quá lóng ngóng làm đứt tay. Ngón này đứt, xé quai nón lên buộc chặt, lại tới ngón kia đứt, liếm càng sắc vết đứt càng sâu. Ngón tay mình bị đứt sâu quá phải bò trên bờ đi tìm Lợi đang lẫn ở đâu thấm thảo ra hiệu. Nó đi tìm ngọn sim nhai đắp vào vết cắt. Có một thời luôn có một ngón tay buộc giẻ, hôi rình, nhớp nháp.


Gánh cỏ lèn đẩy lên tận đòn gánh. Gánh oằn cả hai vai. Dốc trơn trượt, ngón chân bám chặt vào những vết trâu đi khỏi ngã. Bà chờ cháu trước ngõ, nhìn cháu hút trong gánh cỏ không tiếc lời khen.



Đứa cháu nào cũng ham được bà khen. Phải cho bò ăn thật no, phải cắt cho đầy gánh cỏ để khoe với bà. Huy, Hiệu lùa bò về tới ngõ gọi bà ơi. Bà đứng chờ trước cửa chuồng bò. Bà vỗ vỗ vào bụng bò. Ôi bò no quá, bỏ no sắp mọc cánh rồi. Bỏ sắp mọc cánh rồi. Ngày nào bả cũng nói câu đó mà cháu nghe không chán. Lời khen của bà như liều thuốc tiên cho những đứa cháu trở về nhà sau buổi làm đồng hăng say. Đêm bà nằm giữa Huy và Hiệu, giữa mùi đồng ruộng giữa mùi bò khen khét.


Một hôm mưa to quá, thương bỏ không được đi ăn, Huy sang đồng Hương Châu cắt cỏ. Huy buộc chặt áo mưa, gánh trên vai đôi gióng mây bà mới thắt. Mưa mịt mù cả cánh đồng chỉ mỗi mình Huy. Căm cụi từ trưa đến chiều tối thì đẩy gánh. Chuẩn bị gánh về thì ông bảo vệ xuất hiện trước mặt. Huy không biết bên Hương Châu vừa có lệnh cấm người làng nơi khác sang cắt cỏ. Mất cỏ, mất cả gióng cả giành, lại thương bỏ cả chiều nay nhịn đói, Huy đi về nhà ngồi buồn xo. Bà phải dỗ dành cho cháu nguôi ngoai. Rồi bà sẽ thắt cho đội gióng mới. Rồi bà sang nhà mự Trọng xin ôm rơm về cho bò ăn tối nay.


Nếu có một chút lãng mạn để nói về việc chăn bò có lẽ chỉ là vào ngày trời nắng. Thả bỏ ở Ngã Hai, leo lên gò, trải áo mưa ra nằm mơ màng nhìn lên trời cao xanh có mây bay lờ lững. Ngã Hai là một đồng cỏ rộng miên man, đàn bò nhiều làng lùa hết đến đây những ngày phiên. Dưới gò có đẫm nước. Bên kia đẩm là đường sắt. Đoàn tàu đi qua là biết mấy giờ. Chút thảnh thơi có được của bọn trẻ chăn bò chỉ bấy nhiêu.


Với Huân tuổi thơ của nó đẹp nhất là những ngày chăn bò ở Ngã Hai. Và rồi, chính mình lại là người gây ra cho nó một nỗi đau.


Một con bê đã chết khi vừa sáu tháng tuổi. Con bê chết bởi sự thiếu hiểu biết của mình.


Bê con có bộ lông vàng mượt, trên đầu có một cái đốm trắng, ở đuôi cũng có cái đốm trắng giống hệt như thế. Ai nhìn con bê cũng trấm trổ hỏi mẹ nó ăn gì mà đẻ con tốt sữa vậy. Huân theo bê con ra đồng, tìm nhổ cỏ rấy cho bê ăn. Cỏ rấy là loại cỏ hiếm, nghe nói trong cỏ có mỡ, con bò nào được ăn nhiều mỡ màng. Có phải vậy không mà sáu tháng con bê mũm mĩm đẹp như tranh vẽ. Thấy Huân và Hiệu đâu là bê lại gần.


- Đổ mi ai đang đến. - Hiệu hỏi Huân.


- Không biết.


- Bê.


- Bê sao lại nói là ai?


- Bạn mi mà.


Bê con là bầu bạn. Bê con là đứa em cưng. Thường thì tổi nào bê con cũng vào ngủ trong thếm nhà. Học bài xong là Huân ra vuốt ve, trò chuyện với nó một lúc mới yên tâm vào ngủ.


Mùa lụt, không ra đồng được, đàn bò vào ăn ở Bãi Mua. Công việc chăn bò là của Huy và Hiệu nhưng hôm đó mình xin được đi vì Bãi Mua gần nhà Lài. Lùa bỏ vào bãi, thả đấy, mình vào nhà Lài chơi.


Lài rủ mình đi nhổ sẵn làm bánh cả. Hai đứa ra vườn lựa sẵn nhỏ. Mang vào cả thành bột. Thời gian cà từng củ sắn thành bột rồi làm bánh hấp xong mất nửa buổi chiều. Mình ăn bánh xong, ra tới Bãi Mua thì cũng vừa lúc lùa đàn bò về nhà.


Trên đường về, anh Xuân nhìn con bê của nhà mình thắc mắc, sao con này bụng căng lên vậy Hà? Mình trả lời, vì nó no chứ sao.


Nó có ăn gì đâu mà no, thấy nó nằm một chỗ suốt chiều nay.


Mình đáp lại, no rồi thì nó mới nằm thế.


Lùa hai mẹ con bỏ về chuồng, mình khoe ầm ĩ lên với cả nhà con bê hôm nay no tròn, là không ăn gì cũng no. Chẳng ai để ý, mình lùa bỏ mạ vào chuồng, gài của, đi vào nhà.


Nằm ngủ trong nhà nghe tiếng bò mạ ọ ọ suốt đêm. Mẹ nói với cha, con mạ động dục rồi, mai vào nhà di Mậu mượn bò giống. Tiếng bỏ mạ vẫn rống lên, nghe cả tiếng phá chuồng. Mùa mưa lũ, nằm trong chăn một lúc ai cũng rất ngon giấc.


Sáng mai cha dậy sớm. Cha lại giường lay lay mình, hôm qua con bê có biểu hiện gì không. Mình dây theo cha ra chuồng bò. Con bê bụng trưởng phình, tư thế gần như nằm ngửa, sức đã cạn kiệt. Bỏ mạ trong chuống thò đầu ra sát bỏ con nằm ngoài cửa. Nước mắt hai mẹ con dầm đìa. Suốt đêm qua bỏ mẹ rồng lên cầu người cứu con mà không ai biết.


Nó bị cảm gió rất nặng rồi. Cha đi tìm bố kết và vỏ bưởi làm một chậu to đốt bên cạnh xông hơi. Cách này chẳng ích gì nữa. Nhà mình nuôi bò nhưng chưa khi nào nghĩ tới cách chăm sóc khi bỏ ốm đau.


Cha mở cửa cho bò ma bước ra tiễn biệt con. Con bê ngưng thở rồi nhưng hàng nước mắt vẫn ướt rượt. Không nói được tiếng người, bò mẹ nói bằng nước mắt.


Huân chạy trong nhà ra ôm bê khóc nức nở. Huân thoa lên bộ lông mềm mượt như tơ của bê con. Mùa lụt mất điện, đèn thì hết dầu, Huân không ra tìm bê như mọi bận nên nhà không biết đêm qua bê không vào thếm nhà ngủ.


Người ta đến nhà làm thịt con bê. Huân bỏ học, ngồi ở thếm của khóc bê hời hời. Nó chỉ biết khóc thôi chứ không oán trách ai.


Mấy ngày sau chuyện con bê, cha nói với mình: Con bê này chết không hiểu sao tự nhiên cha thấy nhẹ cả người.


Là sao cha?


Là vì bấy lâu nay nhà mình bình yên quả. Cha sợ chuyện chẳng lành. Con bê đẹp quá. Nó bị vậy giữ lành cho cả nhà.


Cha nói vậy là sao? Sao bất cứ chuyện gì xảy ra cha cũng tìm được cách tự cân bằng như vậy?



離鄉求學的夏天


離鄉求學的夏天


1997年夏天,輝(Huy)與同(Đồng)一同前往榮市(Vinh)參加榮市大學(Đại học Vinh)附設資優學校的入學考試。
同是心愛的女老師心姐(cô Tâm)的孩子,而輝與同兩人都曾是她與見老師(Thấy Anh)共同任教學校的學生。

一年前,他們就讀於河靜省(Hà Tĩnh)省級資優中學的數學資優班。

離開河靜,是因為對英文這一科過於恐懼。

他們在九年級時從山區的香溪(Hương Khê)下來就讀數學資優班。但這所學校從六年級就開始教授英文,所以他們兩人在課堂上幾乎完全聽不懂。英語老師並不關心為什麼班上有兩位學生如此遲鈍,連最簡單的問題都不會。她對著他們說:"Are you stupid?"(你們是笨蛋嗎?)全班哄堂大笑。輝與同也聽不懂,便隨著笑聲一起笑。老師在黑板上又寫了這句話,全班漸漸安靜下來,目光轉而集中在他們兩人身上。

有位女同學幫忙翻譯了這三個單詞。輝與同臉貼在課桌上。這兩位來自山區的孩子開始切身感受到文化差距與進入市區就學所帶來的阻力。

同的哥哥慶兄(Anh Khánh)曾就讀於榮市的資優學校,他說榮市資優學校的英文從十年級才開始學,而且報考這間學校的學生來自廣平省(Quảng Bình)、乂安省(Nghệ An)、河靜省等各地鄉村,所以不必擔心自己落後、土氣。輝與同聽了很心動,決定等九年級結束就報考。

輝出發那天,母親給了一百千盾(越南幣)。母親在他的短褲縫了一個暗袋用來藏錢。八十千藏在短褲口袋裡,母親還小心縫了一道暗線,只要輝拉出線頭就能取錢。另外二十千放在外面穿的長褲口袋中,用來支付汽車車資。

從家到榮市超過七十公里。長途車每天只有幾班,發車時間不固定。早上只能站在路邊等車,有車來就上。見老師陪輝與同一起參加考試。搭上長途車後,他們發現錢包被偷了。在河靜鎮市,他們只得下車回頭,改在國道邊攔車去榮市。搭車途中,同的五十千盾也被偷了。

考試為期兩天,連同其他手續共三天。他們在榮市無親無故,連學校位置也不知道。交通、伙食與住宿費全靠輝短褲口袋中那八十千盾撐著。

他們先找考場,再找住宿。

考完第一科後,輝拉著同到博物館玩。他們沒有足夠的錢吃午飯,只能以玩耍來忘記飢餓。下午再回考場。

那天下午,同借到一些錢,夠再吃一餐並支付返家車費。與他們一同赴考的河靜市同班同學,父母給了五百千盾,是輝的五倍。

夜晚,在路口的街燈下,他們打開書本再溫習一下。輝說坐在這裡讀書可以順便看很多車子開過。他發現只要車子要右轉,後方就會亮起黃燈。這對同來說,簡直就像牛頓發現萬有引力那樣新奇。

三天結束後,他們臉色憔悴、筋疲力盡,因為常常挨餓。這時母親才知道他們被偷了錢,又如何靠自己撐過去。母親責怪見老師,怎麼能將兩個孩子放在路邊不去家裡告知家長。輝則非常開心,因為這兩個初次出城的土孩子能自己處理好一切。他還哭著說,旅社老闆看他們可憐竟然不收住宿費。母親也忍不住淚如雨下,心疼不已。

兩週後的一個傍晚,輝從坡外一路跑回家,一邊跑一邊喊:「媽媽!我考上了!錄取通知書來了!」母親從屋裡跑出來,正在切香蕉花的我也丟下刀子衝到巷口。輝撲進媽媽懷裡緊緊擁抱,媽媽也抱著輝轉了一圈。「真的嗎?通知書呢?」我也擁抱著輝。弟弟、祖母都跑出來,全家人在玉米坡上擁抱在一起,媽媽滿臉淚水。那種激動、幸福的感覺無法形容。

輝與同的優異成績改變了人們對福同村(Phúc Đồng)學生的看法:我們鄉下的孩子一點也不比別人差。輝愛讀書的氛圍也影響了弟弟孝(Hiệu)與渙(Huân)。兩年後,孝也報考了省級資優中學。

每兩週,輝從榮市資優學校回家一趟。有時一人回家,有時帶著五六位同學一起回來,住在同一排租屋。輝帶朋友回來的日子我都很開心。能接待這些優秀、帥氣的同學,我總是準備最特別的菜色招待他們。有道「特別菜」是切絲的波羅蜜醃菜炒蒜與香紫蘇葉(lá canh giới)。每位客人——權弟(em Quyến)、海弟(em Hải)、勇弟(em Dũng)——都讓我愛不釋手。
同教輝吹口哨,權教輝彈吉他,輝則教另一位同學炫技轉筆與彈指技巧。

在上學途中見到剛下車的輝,我高興得想翹課跟他回家玩。看到弟弟的那一刻,心裡暖洋洋的。輝去井邊打水洗澡,一邊吹著口哨。洗完澡後,他拿出棋盤跟父親下棋。晚上十一點,父子倆還在看剛買的新彩色電視播放的足球賽。

週末轉眼過去。隔天凌晨四點,月光仍亮,我與父親陪輝到大馬路搭車去榮市。車來了,輝揹起背包,上車前對我們勉強一笑,揮了揮手。車開遠,消失在店鋪之後,我與父親才牽著腳踏車走回家。父親不想騎,於是我們父子兩人在月光下默默前行。心中空落落的,只盼兩週後輝再回來。

是否真有必要那麼早離家?畢竟還有留在家鄉唸書的選項。對於當時那些成績優秀、思想進步、願意投資孩子教育的家庭來說,這樣的問題根本不在腦中。

有一次,在十一年級中途,輝對父親說,如果只是為了考上大學,其實他可以回家讀書。父親立刻否決:「我們還沒困難到讓你擔心的地步。」那些從小貧困、早早分擔家計的孩子,總將家庭經濟壓力放在心上。或許,對家的思念,也讓輝有過想返回的念頭。

同說:「如果可以重新選擇,我還是想從村莊的學校出發。」但他也說:「就算時光倒流,我與輝仍不會改變已走的道路。因為,當時我們的想法就是那樣。喜歡學習的人,自然會渴望找到一個自己認為更好的學習環境。」


書評簡記:
這篇回憶錄風格的敘述,以平實而細膩的筆觸,刻劃了兩個來自越南山區孩子,為求學跨越語言障礙與經濟困難的故事。從誤解英文到夜晚路燈下的備考、從失竊到錄取的歡呼,文章充滿對家庭、教育與成長的真誠情感,堪稱越南教育階級流動經驗的溫柔素描。

Hè năm 1997, Huy với Đồng ra Vinh thi vào trường chuyên bộ Đại học Vinh. Đồng là con cô Tâm, thấy Anh, hai người dạy cùng trường với mẹ.

Một năm trước hai đứa học lớp chuyên Toán trường năng khiếu tỉnh Hà Tĩnh.

Lí do bỏ năng khiếu Hà Tĩnh ra Vinh thì là quá lo sợ môn tiếng Anh.

Lớp chín, hai đứa từ Hương Khê xuống học lớp chuyên Toán. Chương trình tiếng Anh ở đây đã dạy từ lớp sáu nên vào giờ học hai đứa không hiểu gì. Cô giáo dạy tiếng Anh không quan tâm tới lí do vì sao trong lớp có hai học sinh ngáo ngơ, hỏi một câu đơn giản cũng không biết. Giờ giảng bài cô nhìn hai đứa, nói: "Are you stupid?" Các bạn cười ổ. Huy và Đồng không hiểu nghĩa là gì, cười theo các bạn. Cô tiếp tục viết lên bảng "Are you stupid?" Cả lớp không cười nữa, hết nhìn lên cô giáo thì nhìn hai bạn.



Một bạn gái đã dịch nghĩa ba từ trên. Huy và Đồng củi mặt xuống bàn. Hai đứa học trò miền núi bắt đầu cảm nhận được khoảng cách văn hóa và những cản trở khi đến thị xã học.

Anh Khánh anh trai Đồng, từng học ở trường chuyên bộ Vĩnh, cho biết trường chuyên bộ Vinh có hệ tiếng Anh ba năm. Vào lớp mười mới bắt đầu học. Học sinh thi vào trường chuyên ở Vinh đến từ nhiều làng quê các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh nên không phải lo lắng về những chuyện như mình lạc hậu, nhà quê. Hai đứa nghe thích, chờ qua lớp chín thì đăng kí thi.

Ngày Huy đi thì mẹ cho một trăm nghìn. Mẹ may một cái túi trong quần đùi để giắt tiền. Tám mươi nghìn cất trong túi quần đùi. Mẹ cẩn thận may thêm một đường chỉ nháp, khi lấy tiến Huy chỉ cầm đầu sợi chỉ kéo ra là được. Hai mươi nghìn để ở túi quần âu mặc ngoài gửi tiến xe ô tô.

Từ nhà ra Vĩnh hơn bảy mươi cây số. Xe ca một ngày vài chuyến, giờ chạy không cố định. Buổi sáng cứ ra ngoài đường chờ, khi nào có xe thì lên. Thấy Anh đưa Huy và Đồng đi thi. Ngồi trên xe ca thấy bị mất cắp ví. Đến thị xã Hà Tĩnh, thấy quay về. Hai đứa đứng ở quốc lộ chờ bắt xe ra Vinh. Lên xe, năm mươi nghìn của Đồng cũng bị lấy cắp.



Đợt thi diễn ra trong hai ngày nhưng thêm các thủ tục nữa thành ra ba ngày. Hai đứa không quen ai ở thành phố Vinh. Trường ở đâu cũng không biết. Toàn bộ chi phí xe cộ, ăn uống, thuê nhà trọ gói gọn trong tám mươi nghìn đồng đang cất dành trong túi quần dùi của Huy.

Hai dứa đi tìm trường thi. Tiếp theo tìm phòng trọ.

Thi xong môn đầu tiên, Huy rủ Đồng ra ngoài bảo tàng chơi. Hai đứa không đủ tiền để ăn cơm trưa. Chơi cho quên đi cơn dỏi cơm trưa. Chiều lại vào thi.

Thi xong, buổi chiều Đồng vay được số tiến đủ để ăn thêm một bữa vào ngày mai và tiền xe đi về. Người bạn cùng lớp trong thị xã Hà Tĩnh cũng ra thì đợt này. Bạn đi thi, bố mẹ cho năm trăm nghìn, số tiến nhiều gấp năm lẫn của Huy.

Góc ngã tư buổi đêm dưới cột đèn đường hai đứa giở sách ôn cố thêm chút nữa. Huy bảo ngồi đây vira học vừa nhìn được nhiều ô tô chạy qua. Huy tìm được quy luật xe ô tô rẽ đường phải là bật cái đèn vàng phía sau. Đồng coi đó là một phát hiện thú vị ngang tầm Newton phát hiện ra lực hấp dẫn từ quả táo rơi.

Ba ngày dì thì về mặt mũi đứa nào cũng hốc hác, bơ phờ vì nhịn đói. Bấy giờ mẹ mới biết chuyện bị mất cắp tiến và hai đứa đã tự xoay xở thế nào. Mẹ trách thấy Anh sao thả hai đứa con giữa đường mà không sang nhà bảo cho cha mẹ biết. Huy thì vui lắm, vì hai thẳng lơ ngơ lần đầu tiên ra phố mà đã lo được hết. Huy còn khoc là bác chủ phòng trọ thương tình không lấy tiền trọ. Mẹ thì nước mắt lã chã vì xót con.

Một buổi chiều sau đó hai tuần, Huy từ ngoài dốc chạy về nhà. Vừa chạy vừa reo mẹ ơi mẹ ơi con đỗ rồi, có giấy báo trúng tuyển rồi mẹ ơi. Mẹ trong nhà chạy ra. Mình đang cắt rau chuối cũng buông dao lao ra ngõ. Huy sà vào lòng mẹ, ôm chặt mẹ. Mẹ ôm Huy xoay một vòng. Thật không thật không. Giấy báo đâu đã nào. Mình cũng ôm chặt Huy. Hiệu chạy ra. Rồi bà. Cả nhà ôm nhau nhau giữa dốc ngô. Mẹ nước mắt đầm đìa. Cảm giác nghẹn ngào, hạnh phúc.

Việc học xuất sắc của Huy và Đồng làm thay đổi cái nhìn về học sinh Phúc Đồng. Rằng quê ta học hành cũng không thua kém ai. Không khí học hành của anh Huy tác động tích cực đến Hiệu và Huân. Hai năm sau Hiệu cũng thi vào năng khiếu Tỉnh.

Hai tuần một lần, Huy ngoài trường chuyên bộ Vinh về thăm nhà. Khi về một mình, khi rủ thêm năm, sáu bạn cùng lớp, cùng dãy nhà trọ. Những dịp Huy đưa các bạn về mình vui lắm. Mình được tiếp chuyên những đứa bạn em học giỏi, khôi ngô. Mình nấu cơm, kiếm các món ăn lạ về tiếp đãi các em. Món lạ là nhút mít băm xào trộn với thật nhiều tỏi và lá canh giới. Em Quyến, em Hải, em Dũng, em nào chị Hà cũng quý và ngưỡng mộ. Đồng dạy Huy cách huýt sáo. Quyến dạy Huy gảy đàn ghi ta. Huy thì dạy một bạn khác cách xoay bút, bật ngón tay điệu nghệ.

Trên đường đến lớp gặp Huy vừa xuống xe là mắt mình mừng rỡ, muốn bỏ buổi học hôm nay theo Huy về nhà chơi luôn. Cảm giác nhìn thấy em sao mà ẩm áp thế. Huy ra bể múc nước tắm, miệng huýt sáo líu lo. Tắm xong, mang bộ cờ ra đánh với cha. Mười một giờ hai cha con vẫn đang xem tường thuật bóng đá phát trên chiếc tivi màu vừa mới mua.

Ngày cuối tuần trôi qua nhanh. Bốn giờ sáng hôm sau, trăng còn sáng, mình và cha đi cùng Huy lên đường cái đón xe ra Vinh. Xe đến, Huy mang ba lô lên xe, gượng gạo cười, tay vẫy vẫy chị và cha. Xe đi rồi, khuất khỏi mấy hàng quán rồi mình với cha mới dắt xe đạp quay về. Cha chẳng buồn đạp xe. Hai cha con lặng lẽ đi dưới ánh trăng. Cảm giác cứ trống vắng buồn thương. Mong thời gian trôi nhanh để hai tuần nữa Huy lại về.

Có nhất thiết phải xa nhà sớm vậy không khi mà vẫn còn sự lựa chọn là học ở quê? Câu hỏi đó tuyệt không tồn tại trong đầu những học sinh giỏi và bậc phụ huynh có tư tưởng tiến bộ biết đầu tư cho con chuyện học hành bấy giờ.

Một lần, giữa năm lớp mười một, Huy nói với cha, nếu mục đích để đỗ đại học thì con về nhà học cũng được. Cha gạt đi, cha mẹ vẫn chưa khó khăn đến mức con phải lo lắng như vậy. Những đứa trẻ nghèo sớm lo việc nhà cứ luôn canh cánh trong lòng gánh nặng kinh tế đổ lên đầu cha mẹ. Và, có thể cả nỗi nhớ nhà khiến cho Huy có lúc nghĩ ngợi muốn về gần.

Đồng nói, em muốn ra đi từ trường làng, nếu được lựa chọn lại. Và Đồng cũng nói, nhưng nếu thời gian quay ngược lại, em và Huy vẫn không thay đổi con đường mình đã đi. Bởi suy nghĩ ở thời điểm đó là như vậy. Đã thích học rồi thì muốn tìm đến một môi trường học mà mình cho là tốt hơn.

被遺棄的鄰人:查特伯伯的故事(Bác Chắt)

被遺棄的鄰人:查特伯伯的故事(Bác Chắt)


過了那個坡就是查特伯伯(Bác Chắt)家,再過去是我家,然後就是雲姐(chị Vân)家。雲姐一家南下兩年後,查特伯伯也搬走了。

我們兄妹和查特伯伯的家來來去去,像回自己家一樣自然。伯伯性情溫和、寡言,即使我們在屋裡院裡胡鬧,他也從不大聲呵斥。我們去摘剛結小果的柚子拿來玩搗米,他也隨它去。他的母親巴嬸(bà Ba)在我祖母還在廣寧(Quảng Ninh)時,就像我們的祖母一樣親。月姮姐(chị Hằng)在桃樹下被毛毛蟲爬上身,哭著叫巴嬸。忠哥(anh Trung)回鄉探親,吵著要吃巴嬸的鹽醃茄子配飯。我們去田裡撿花生,撿得太少,去找查特伯伯的田,他總會分我們幾行拔回家。家裡水災、母女倆病倒,查特伯伯耕田回來還會來挑水幫忙。煮好一壺綠茶後,他會叫我們父母來喝。南下前,芳爸(cha Phương)每天中午都去他家喝茶。大家喜歡在他家喝茶的那份自在與舒坦。

高三那年夏天準備大學考試,我晚上去他家讀書。傍晚吃過飯,喝幾碗綠茶後,他就上床休息。有時入睡,有時只是小憩一會兒又醒到天亮。他睡得不多。我在他床邊的茶几上讀書,既安靜又不怕黑。每當他上床,我總提醒他:「等我念完書才能閉眼哦!」

冬天時,伯伯會縮著身子把雙手塞進短褲裡,走路像在跑。夏天,除了下田的時候,幾乎從沒見過他穿上衣。他的臉削瘦,笑起來滿臉皺紋擠作一團。他的雙腿細得像他家茶几下那支抽旱煙的煙管。

他那條短褲原本是什麼顏色,他自己恐怕也不記得了。

我在清煉(Thanh Luyện)火車站等車,給他買了一條泰國短褲(quần đùi Thái),讓爸回來時順便拿去給他。後來爸寫信回來說,伯伯感動得很。早知道我就多買一條了,也讓他更開心。爸說,一條就讓他很高興了,他也沒穿,可能太新了讓他不習慣。

每逢過年前夕,伯伯總會備幾塊薑放在灶腳。這是為了預防肚子痛。一年到頭吃的是地瓜、木薯飯、酸菜與木瓜乾,腸胃早就習慣清淡。到過年能吃上一口肥肉,反而容易鬧肚子。有一年過年,他趴在床上,臉皺得說不出話。因為除夕那晚他被請去吃年夜飯,結果鬧肚子痛了三天。

有一天,軍哥(anh Quân),他的小兒子,坐在柿子樹上對我喊:「欸!查特叔叔(chú Chắt)是不是我們的親叔叔啊?」那時我才知道,原來查特伯伯只是鄰居,根本不是親戚。

有一天村裡突然傳出消息:查特伯伯有毒藥。

他的外甥女水妹(cái Thủy)病得很重。有人嘴賤,傳說她是吃了查特伯伯家的飯,被他下毒才得病。這女孩竟然信了。圖大爺(ông Tủ)也相信了這個說法。一則詭異駭人的故事開始傳開。每個人口中版本略有不同,但主軸都是:查特家世代會用毒藥,不毒外人就得毒自己家人,否則會讓整個家族衰敗、破落。

大家紛紛來探望水妹,其實是來看「中毒者」的模樣。圖大爺沒帶孩子去看醫生,孩子肚子越來越大。他去查特伯伯家下跪請他解毒。母親早亡,他一人拉拔女兒長大,現在唯一的親人竟被指控為毒手。圖大爺在查特伯伯家門前,懇求、哀求,查特伯伯怎麼解釋都沒人信。

圖大爺又找了更有地位的人來說情,也找法師來看。那些法師都說只有查特伯伯才能救她。

深夜裡,圖大爺坐在門口看著查特伯伯,求救又憤怒。查特伯伯坐在床上,兩人都哭了。這時再說什麼都無濟於事,沒有人會相信一個「養毒之鬼」。

從此,查特伯伯和他周圍的人再也不得安寧。他的子孫被孤立、被譏諷。村裡一有人生病,就有人說是中了「查特毒」。婚禮、祭祖不邀他。連親戚見了也避開。他切開熟透的波羅蜜請人吃,沒人理。

他孤零零地扛著鋤頭去田裡,又孤零零地回來。他坐在奈渡(Bến Nại)邊,遠望著田野,滿眼無盡的悲傷。他種了一棵榕樹在奈渡邊,說是將來他死了,可以讓鄉親在那兒乘涼。榕樹開始生根、發芽、翠綠茂盛。有一天,一群小孩和年輕人跑來將它砍掉。說那是「毒樹」,是查特種來養毒鬼的。毒樹!砍光它!連他在田埂邊種的嫩榕也一併拔了。

那時我正值暑假。中午時聽到巷子傳來吵雜聲,年輕人、小孩全聚在一起。爸爸說,他們拿炸藥來,要炸掉查特伯伯家的整座花園,殺了那個「毒鬼」。我跑出去,那群年輕人裡,有些人我曾以為是有見識的。

查特伯伯跑到我家找爸,聲音顫抖:「救我,伯兄啊,救我……村子已經把我埋了,只差沒蓋土而已……」

那晚,爸召集村民開會。他一條一條分析,講得清清楚楚,大家似乎聽進去了。查特伯伯坐在爸身邊,不停拭淚。

可在這個原本事件稀少的村子裡,謠言怎會輕易結束?總有人不願放過他。查特伯伯什麼也沒做,卻被厭惡的,是那個「毒藥故事」太詭異、太精彩、太吸引人。也許這正是謠言在鄉村中穿越歲月、活力旺盛的根基。

他再也無法正常生活。他被誣陷、被唾棄,日夜折磨。他離開祖宅、離開祖傳的花園,離開所有他摯愛的,南下了。

「查特伯伯南下了,」媽媽說。我們全家都很難過。我們愛的鄰居要離開了。也好吧,他經歷那麼多事,在這地方也活不下去了。從沒見過有人離鄉那麼痛苦。他臨走前幾天,不吃不睡,在田邊站上幾個小時,一塊塊看他播種了幾十年的田。回到家,在園中發呆,看著每一棵橘樹、柚樹。他幾乎一生住在這裡,只盼能死在杵村(Xóm Trùa),卻終究得打包離開。那一刻,他把行李扛上肩,在門階上跪倒,大哭如孩童。

到南方後,他突然失憶了。兄姐們說,這也許是上天可憐他,讓他就這樣安靜地過完餘生。


簡評:

這是一篇滿載鄉村情感與社會批判的散文小說。作者透過細膩而具畫面感的筆觸,勾勒出一位善良鄰人如何在偏見與謠言的圍攻中被村莊活活「埋葬」,最終帶著心碎與失望離開故土。文章不只是對越南鄉村民間文化的呈現,也觸及人性對「異常者」的殘酷排斥。它提醒我們:一個沒有正義與溫情的共同體,終將吞噬自己最柔軟的部分。


Qua khỏi dốc là nhà bác Chắt, sang nhà mình, rồi đến nhà chị Vân. Hai năm sau khi gia đình chị Vân đi Nam thì bác Chắt cũng đi.


Chị em mình qua lại nhà bác Chắt tự nhiên như ở nhà. Bác hiến, ít nói, không bao giờ to tiếng khi bọn mình phá phách trong nhà hay ngoài vườn. Cây bưởi quả vừa nhú lên bọn mình hái chơi giã gạo bác cũng kệ. Bà Ba, mẹ bác, như là bà nội của bọn mình trong thời gian bà nội mình ở ngoài Quảng Ninh. Chị Hằng bị sâu róm ngoài cây đào bò lên người, khóc réo bà Ba. Anh Trung về quê chơi, đòi cơm cà muối mặn của bà Ba. Chị em mình ra đồng đi mót lạc được ít quá đi tìm ruộng bác Chất thể nào bác cũng dành cho vài ba hàng nhổ mang về. Bể nhà với nước, mẹ con bị ốm, bác đi cày về chạy xuống gánh. Nấu xong ẩm chè xanh bác gọi cha mẹ mình. Hồi chưa đi Nam, cha Phương trưa nào cũng lên nhà bác uống nước chè. Mọi người thích sự thoải mái, dễ chịu khi uống bát nước ở nhà bác.




Hè năm lớp mười hai, đợt ôn thi đại học, đêm mình sang nhà bác học bài. Chập tối, ăn xong cơm, uống vài bát nước chè, là bác lên giường. Có khi ngủ, có khi chợp mắt chút rồi thức đến sáng. Bác ít ngủ. Mình học ở bàn uống nước, cạnh giường bác nằm. Vừa yên tĩnh vừa không sợ bóng đêm. Thấy bác lên giường là mình dặn bác phải đợi con học xong mới được nhắm mắt.


Mùa đông bác xo ro đút hai tay vào quần đùi, đi mà như chạy. Mùa hè, trừ những khi ra đồng, không khi nào thấy bác mặc áo. Khuôn mặt xương xẩu. Bác cười, các nếp nhăn trên da mặt xô đẩy. Hai chân bác như cái ống điếu hút thuốc lào vẫn thường để dưới bàn uống nước nhà bác.


Chiếc quần đùi bác mặc nguyên thủy là màu gì có lẽ bác cũng không nhớ nữa.


Mình chờ tàu ở ga Thanh Luyện, mua cho bác một cái quần đùi, gọi là quần đùi Thái, nhờ cha lát quay về mang sang cho bác. Cha viết thư ra cho biết bác xúc động lắm. Biết thể mình mua hẳn hai cái luôn chỗ bã công bác mừng. Cha nói, một cái bác cũng vui rồi, bác có mặc đâu. Có lẽ mặc cái quần mới quá, bác ngại.


Cứ sắp tới Tết là bác kiếm củ gừng để dưới cụi bếp. Để phòng đau bụng. Quanh năm ăn cơm độn khoai sắn, cơm nhút khế, dạ dày quen với chay tịnh, thanh đạm nên tới ngày Tết được ăn miếng thịt mỡ là có chuyện. Mình nhớ có một cái Tết bác nằm sấp trên giường, mặt nhăn nhó không nói thành lời. Lí do là chiếu ba mươi bác được mời đi ăn tất niên. Vụ đau bụng đó kéo dài ba ngày Tết.


Anh Quân, con út bác, đang ngồi vắt vẻo trên cây khế, hỏi vọng xuống. Thấy ơi, chú Bả có phải là chú ruột không? Bấy giờ mình cũng mới biết bác Chắt chỉ là hàng xóm chứ hai nhà không phải là ruột thịt.


Một ngày người làng xôn xao tin: Bác Chắt có thuốc độc.


Cái Thủy cháu bác, con em gái bác, bị ốm nặng. Một kẻ độc miệng nào đó đã gieo vào đầu nó rằng vì ăn cơm ở nhà cậu Chắt, bị cậu cho thuốc độc vào nên mang bệnh. Con bé tin. Ông Tủ là thấy nó cũng tin chắc như vậy. Một câu chuyện li kì rùng rợn được dưng lên. Qua lời kể mỗi người lại thêm thắt tình tiết. Cốt truyện là nhà bác Chắt mấy đời làm thuốc độc. Nếu không bỏ độc được cho người ngoài thì phải bỏ cho người nhà. Không làm vậy thì gia đình người nuôi thuốc độc bị lụn bại, không làm ăn gì được.


Người ta rủ nhau tới thăm con Thủy nhưng thực ra là để xem hình hài con bệnh thuốc độc ra sao. Ông Tủ không đưa con đi khám, bụng con bé thì ngày càng trưởng lên. Ông Tú sang nhà bác Chắt lạy bác giải độc cho con bé. Mẹ nó mất rồi, ông Tủ gà trống nuôi con, giờ người thân là cậu nó lại ám hại. Ông Tú ngồi ở thếm nhà bác van lơn, cầu khẩn. Bác Chắt thanh minh thế nào cũng không được.


Ông Tú nhờ nhiều người có uy lực hơn đến gặp bác. Mặt khác ông nhờ thêm thấy cúng. Các thấy cúng bảo rằng chỉ có bác Chắt mới cứu được nó.


Đêm khuya rồi, ông Tủ ngồi ở cửa nhìn bác Chắt cầu cứu và oán hận. Bác Chắt ngồi trong giường. Cả hai cùng khóc. Những lời khẳng định về nỗi oan ức của bác Chắt lúc này là vô nghĩa. Không ai tin lời của một con ma thuốc độc.


Một cuộc sống không còn được yên ổn bắt đầu với bác Chắt, với những người thân quanh bác. Con cháu bác bị xa lánh, dè bỉu. Trong làng có người ốm người ta lại tìm mọi lí do để thuyết phục rằng bị ngấm thuốc độc từ ông Chắt thuốc độc. Đám cưới, đám giỗ không ai mời bác. Những người họ hàng tránh khéo khi nhìn thấy bác. Quả mít chín bác bổ ra mời ai cũng quay mặt đi.


Bác lầm lũi vác cuốc ra đồng. Lầm lũi vác cuốc về. Bác ngồi bên Bến Nại. Mắt nhìn xa xăm ra cánh đồng với nỗi buồn tủi vô hạn. Bác trống một cây đa ở Bến Nại, để mai này mình chết đi để lại được bóng mát cho dân làng ngồi nghỉ ngơi mỗi khi ngoài đồng về. Cây đa bén rễ, trổ lá non, tươi xanh dẫn. Một ngày bọn con nít, thanh niên trong làng mang ra ra chặt ngang. Đây là cây ma thuốc độc, ông Chắt trồng lên để ma thuốc độc trủ ẩn. Cây ma thuốc độc. Chặt hết. Nhổ hết. Người ta nhổ hết cả những cây đa non đấy sức sống bác trống bên bờ ruộng.


Khi đó mình đang nghỉ hè. Một trưa nghe tiếng ồn ào ngoài con ngõ chung giữa hai nhà. Thanh niên, trẻ con kéo đến. Cha bảo, chúng nó mang bộc phá tới, dọa sẽ nổ tung cả khu vườn ngôi nhà bác Chắt, giết con ma thuốc độc. Mình chạy ra, trong đám thanh niên đó có cả những người mình từng nghĩ là có hiểu biết.


Bác Chắt chạy sang nhà mình tìm cha, giọng lạc đi, chú cứu bác với, chú cứu bác với chú Bả ơi. Bác khóc. Làng đã chôn bác rồi chú Bả ơi, làng chôn bác rồi. Chôn rồi nhưng chưa lấp đất thôi. Chú cứu bác chú ơi.


Tối đó cha kêu gọi, tập trung người làng tới hội quản. Cha phân tích sự việc một cách rành rẽ, thuyết phục. Bác ngồi bên cạnh cha, tay liên tục quệt nước mắt. Có vẻ như mọi người bắt đầu nghe ra.


Ở một cái làng vốn quá thiếu thốn sự kiện thì sự dồn đoán đâu dễ kết thúc vậy. Một kẻ nào đó vẫn không chịu buông tha. Bác không làm gì để người ta thù ghét, nhưng câu chuyên về thuốc độc nó ma quái quả, nó li kì, nó kích thích quả. Cải sự độc ác đó có lẽ chính là cơ sở tổn tai, là sức sống mãnh liệt, xuyên thời gian cho những tin đồn trong mỗi làng quê.



Bác không thể tiếp tục sống một cách bình thường giữa xóm làng được nữa. Nỗi oan khuất và cảm giác bị ruồng bỏ hành hạ bác từng ngày. Bỏ lại ngôi nhà, bỏ lại khu vườn của tổ tiên, bỏ lại tất cả những gì thân thương máu thịt, bác vào Nam.


Bác Chắt vô Nam rồi con, mẹ nói. Cả nhà mình buồn lắm khi phải biệt lì người hàng xóm quá đỗi thân yêu. Bác đi rồi, thôi cũng mừng cho bác. Sau bao chuyện xảy ra bác sống sao được nữa ở cái đất này. Chưa thấy ai rời quê mà đau đớn như bác. Những ngày sắp đi, bác không ăn, không ngủ. Bác ra đồng, đứng hàng tiếng đồng hồ trước từng đám ruộng mấy chục năm gieo cấy. Về nhà, bác chỉ đứng ngoài vườn, thần thờ trước từng bụi cam, cây bưởi. Sống gần hết cuộc đời, muốn được chết ở Xóm Trùa, vậy mà phải khăn gói ra đi. Giờ phút ra đi, vác bao đổ lên vai, bác gục xuống bậc thềm nhà, khóc rống lên như một đứa trẻ.


Vào Nam đột nhiên bác bị mất trí nhỏ. Các anh chị nói rằng, chắc 

trời thương làm vậy cho tâm bác yên mà sống.

一隻狗的結局

《一隻狗的結局》


養一隻狗,就像是一段戀愛的開始——你明知道終將別離,卻還是選擇投入。

還來不及因病或年老死去,有一天牠也可能突然消失,只因有遠方來的貴客登門。

在這片鄉村出生的狗,命運便是如此。

關於狗的文章與回憶故事,幾乎總是以類似的結局收場。

狗被殺,被煮,成為餐桌上的一口肉,而痛苦則被封存在記憶深處。

那隻叫**墨克(Mực)**的狗,陪伴我們家超過十五年。牠的死,淒涼悲苦,至今提起仍讓人心痛。

說是染上了狂犬病——只是懷疑如此而已。

那天,一隻來自和海(Hòa Hải)的狗,在𣍯乃橋(Bến Nai)橋頭遊蕩。墨克跟著我們姊妹走到查喇田(đồng Chạ Là),在橋邊與那隻狗發生衝突。牠回到家時,渾身沾滿血跡。奶奶端飯給牠,牠卻不肯吃。

奶奶說:「待在家裡,不要再出門了。」
牠聽話地在院子角落安靜躺了一天。

但兩天後,牠又出門了。這次走得更久。但最後還是回來了。

墨克看起來威嚴凶悍,陌生人見了會怕,連其他狗見到牠也會夾著尾巴躲開。

可墨克從未咬過人,也很少吠叫,從不挑釁其他狗——直到那次遇上鄉外那條狗。

人們說墨克從牠那裡染上了狂犬病。必須打死牠。
村裡的成年人來告訴媽媽:「要立刻處理掉牠。」

1982年初,墨克是由爺爺的妹妹抱來我們家的。
媽媽說,那時她剛生下**輝(Huy)**沒幾個月。

墨克乖巧地窩在姑姑懷中,一路從巷口走進家門。輝開始會爬、會走、會跑時,墨克也像個小孩一樣,伏在地上,用肚皮貼著地面向前滑行。十五年來,墨克就像家中的一份子。這十五年牠從未生病。

媽媽請村裡一位壯漢來處理墨克。

大家討論要怎麼下手,一擊致命,讓牠不痛苦。

鐵鎚高高舉起,就在床頭邊等著。

墨克見到一群人圍著牠,便纏繞在媽媽腳邊轉圈。牠知道將有事情發生嗎?牠已不再掙扎了嗎?牠真的得了狂犬病嗎?

媽媽招呼牠走進屋內,墨克也跟進來了。**維拉(Vira)**伸出頭來,窺看床邊。鐵鎚落下。

奶奶走到後院去。

媽媽努力安慰自己說:「不這麼做,牠發病會咬傷孩子們,太危險。」

我站在屋簷下,瞪大眼睛看著這一切發生。

我還能再愛上下一隻斑狗或黃狗嗎?
當我曾將所有的愛都給了墨克,並親眼看見了牠這樣死去?


書評:
這篇散文以極其簡練卻細膩的語言,講述了一段人與狗之間長達十五年的情感,並以殘酷而冷靜的筆觸呈現了牠悲劇性的死亡。**「墨克」**不僅是家中的一員,也映照出鄉村生活中人與動物相依為命的深刻情感,而最終那一擊的無奈,也道出命運的殘酷與人類自保的掙扎。文章沒有矯情,卻餘韻繚繞,是一篇令人心碎的鄉村記事。


Nuôi một con chó giống như bắt đầu một tình yêu mà bạn biết chắc có ngày phải lia xa.


Chưa kịp chết bởi bệnh tật hay già cỗi thì một ngày nó có thể đột nhiên biến mất vì nhà có khách quý ở xa đến.


Con chó sinh ra ở làng quê này số phận nó là như vậy.


Những câu chuyện bài viết kỉ niệm về chó luôn có kết thúc như vậy, hoặc gần như vậy.


Con chó bị giết, thịt vào mồm, nỗi đau vào kí ức.


Con Mực sống với gia đình mình hơn mười lăm năm. Nó chết ai oán. Nên nhắc lại vẫn đau lòng.


Nó bị lây bệnh dại. Là nghi ngờ vậy.


Một con chó ở Hòa Hải lởn vởn ở đầu cầu Bến Nai. Con Mực theo chị em mình vào đồng Chạ Là, đến cầu thì bị con chó kia gây sự. Nó trở về nhà mình lấm lem máu. Bà nội đưa cơm nó không ăn.




Bà nói, ở nhà, đừng đi đâu nữa. Nó ở nhà, nằm im ở góc sân.


Nó nghe lời bà được một hôm. Hai hôm sau đi tiếp. Lần này đi lâu hơn. Nhưng rồi vẫn trở về.


Tướng Mực nhìn dữ, người lạ thấy sợ, những con chó khác nhìn thấy nó cũng lấm la lấm lét.


Mực chưa bao giờ cắn người, ít sủa và chưa gây sự với con chó nào cho đến khi gặp con chó ở xã kia sang.


Mực bị lây dại từ con kia rồi. Phải đập chết nó. Những người lớn đến nhà thông tin vậy với mẹ.


Phải dập chết nó ngay.


Đầu năm 1982, Mực được em gái của ông nội bế đến nhà mình. Mẹ nói, khi đó mẹ vừa sinh Huy được


mấy tháng. Mực nằm gọn trong lòng người cô đi từ


ngoài ngõ vào. Huy lẫm chẫm biết bò, biết đi, biết chạy nhảy, Mực vòn cùng thẳng bẻ nằm sát xuống nến nhà, trườn mình về phía trước. Mười lăm năm qua Mực như là thành viên trong gia đình. Mười lăm năm Mực không ốm một lần nào.


Mẹ nhờ một người đàn ông khỏe mạnh trong làng đến đánh chết con Mực.


Người ta bàn cách đánh thế nào để một nhát con chó chết ngay.




Cái búa giơ lên sẵn. Ngay vị trí đầu giường.


Mực thấy nhiều người đến vây quanh, nó xoắn lấy chân mẹ, đi loanh quanh chân mẹ. Mực biết chuyện gi sắp đến? Mực không còn muốn tự vệ? Có thật là Mực bị bệnh dại không?


Mẹ vẫy Mực vào trong nhà. Mực vào theo. Vira ló đầu vào chân giường. Cái búa giáng xuống.


Bà ra vườn.


Mẹ cố trấn an rằng không làm vậy Mực lên cơn dại sẽ cắn các con nguy hiểm.


Mình đứng ở thềm nhà trân trối nhìn cảnh tượng đang xảy ra.


Mình còn yêu được con vện con vàng nào tiếp theo không khi đã dành hết tình yêu cho Mực và nhìn thấy cảnh này?

書評:翻過山坡就是我家──童年的心靈歸宿

《翻過山坡就是我家》──童年的心靈歸宿


正是在《翻過山坡就是家》這部以鄉村女孩日常為題材的短篇小說集中,我被那種「寫得像沒寫」的文風深深吸引與催眠。

《翻過山坡就是家》——潘翠霞(Phan Thúy Hà)

「你讀過潘翠霞的書嗎?這位正在文壇上引起強烈回響的作家,寫過《別提我的名字》、《我是我父親的女兒》、《家族》,最近又出了《越過山坡就是家》。」一位專寫文學評論的朋友這樣問我。我知道有一位文筆極佳的潘翠霞,來自河靜省香溪縣福同社。但她的書?她到底寫些什麼?

就在朋友這個問題之後,我用了兩天就讀完了這本超過200頁的《翻過山坡就是家》。我讀得如痴如醉,腦海中不禁浮現──作者家門前的那道坡,就是我家門前的那道坡,她童年的那個「坡」,就是我童年的那個「坡」。

每個小故事都像一張張通往童年的返程車票,潘翠霞用細膩的情感書寫,看似微小的情緒,卻養育了無數成長中的靈魂。她記下那些常被視為「小事」而被忽略的點滴,記錄著路山村(Lối Son)以及整個香溪地區土地與人民的生活細節。

雖是瑣事,卻是人生,是人情,因此讀來常讓人不禁紅了眼眶。憑著樸實無華的生活細節,作者喚起了人們的鄉愁,點名那些熟悉的事物,使每一位走過相似人生的人都為那些苦難而感到驕傲──那是一種專屬香溪的堅韌。

這本書的開頭講述了福同小學一位名叫夏老師的老師。夏老師出了一道作文題:「描寫你的家」,作者的父親代筆完成了那篇作文,結果得了高分。夏老師在班上朗讀這篇作文,並分析為什麼這篇作文好,說是因為潘翠霞從困頓中愛上了自己的家。夏老師甚至在半山坡上特地停車,對作者的父母說孩子有文學天賦。那年,孩子用一個善意的謊言寫成的作文,卻因為老師的用心與疼愛,反而深深地灌注了她對家的熱愛,也許這便成了這本以童年與記憶為主題長篇散文集書名的來源。而那篇作文的開頭寫道:「越過那道坡,就能看到我的家。」

而那「翻過山坡」之處,似乎永遠不曾真正越過,那是精神上的家,是每個孩子心中都有的家,只是後來是否還記得、是否還願意喚起罷了。

透過潘翠霞筆下的家,我們深刻地體會到:「家」並非只是溫馨安穩的空間,不是什麼「爸爸是金燭,媽媽是青燭,我是粉紅燭」的甜美童謠,而是父親長年在外工作,母親孤單地撐起整個家;是孩子早早學會在物價飛漲時替家裡買一百公斤米;是鄰里間不僅有淳樸農人,還有酗酒燒房打妻,妻子被逼遠走的悲劇。

於是我們看見作者時而如鄰家大姐般熱情聊天,時而又像低聲絮語的婦人,與鄰人們閒談村事。每個鄰居的模樣、那條黑狗、母豬、黃牛、野花草、一張父親為女兒按摩腹部的老照片……所有童年的渴望與悲傷,她皆出於一片溫柔的懷想。

整部作品彷彿不是由1979年出生、四十歲的潘翠霞所寫,而像是十來歲的潘翠霞,用一雙清澈、純真的眼睛看著這個世界,懷著一點害怕、一點迷茫。

我想,作者以記憶為筆,精準地重現了生活,像是在寫一本生命日記。那些關於母親生弟妹、為了跟姊姊放牛而中午逃課被打、錯殺疑似狂犬病的黑狗、母豬被車撞死、挑水上下坡、母親編草帽的身影、在田裡摸稻刨地的夜晚、盼望著一台收音機、一場電影、一場文藝演出等幸福片刻──這些故事串連彼此,人生與人生交織成永無止盡的鄉愁。

《翻過山坡就是家》,那個「家」不僅是避風遮雨之地,更是心靈的根,是鄰里之間相互照應的親情,是悄悄買下潘翠霞照片掛在牆上、卻怕母親發現的羞澀情誼。

我們從她的筆下讀到那些上坡下坡中灑下的汗水,那些對命運的掙扎,那些人與人之間的痛苦與困惑──像老查被村人誤傳飼養毒鬼而被「活埋」、古榕被砍、路山坡被填平、荒廢的菜園、連青菜都要從外地運來的窘境。

讀完這本書後,我總是充滿驕傲地與潘翠霞一同喊出:「香溪啊!香溪啊!」──那是包容作者童年一切甜美與汗水與淚水的地方。也時常為書中那些命運交錯的角色而心疼:例如那些離鄉採野蜂蜜的父輩、南下做工的母親、或是走船賣茶的遊子。

她筆下也寫到那種兒時的失落──參加縣學科競賽時寫了一支鉛筆,參加省級比賽時因獨立解讀詩句而被《紅嶺》雜誌批評──這些失落,竟讓人產生深深的共鳴。

不知是否有人如我一般,讀後湧起一種深沉的遺憾與懷舊。懷的是童年一去不返,也懷的是那個承載著鄉村文化的生活空間已被時代侵蝕得支離破碎。潘翠霞的每一頁文字,都是一段鄉土的剪影。我們如今飯菜剩了不以為意,卻是否還記得第一口冰棒的滋味?那包只有在貴客來訪時才能開的泡麵香味?

我由衷敬佩潘翠霞。並非僅因她曾在《家庭》中精彩描寫過土地改革,也不是因《不要提我的名字》《我是我父親的女兒》中對戰爭陰影的揭露。而正是在《翻過山坡就是家》這本聚焦於鄉村女子日常的故事集裡,我被她那種「寫得像沒寫」的筆法完全擄獲。那讓我哭過,也笑過,因為那裡,我遇見了自己的童年天地。

也許潘翠霞只是比我早一代,而我就是那承前啟後的一道磚,我模糊記得那些艱難、那些掙扎、那些苦楚與委屈,而如今她替我重新描繪了出來。在《翻過山坡就是家》裡,我重新愛上了那些回家、回鄉、回童年的山坡。

vads-Quảng cáo truyền thông
Thứ bảy, 24/05/2025Xem lịch vạn niên 
VietNamNet
  • Cơ quan chủ quản: Bộ Khoa học và Công nghệ
  • Số giấy phép: 09/GP - BTTTT, cấp ngày 07/01/2019
  • Tổng biên tập: Nguyễn Văn Bá
  • Địa chỉ: Tầng 18, Toà nhà Cục Viễn thông (VNTA), 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
  • Điện thoại: 02439369898 - Hotline: 0923457788
  • Email: vietnamnet@vietnamnet.vn
  • © 1997 Báo VietNamNet. All rights reserved.
  • Chỉ được phát hành lại thông tin từ website này khi có sự đồng ý bằng văn bản của báo VietNamNet.
  • Công ty Cổ phần Truyền thông VietNamNet
  • Hotline: 0919 405 885 (Hà Nội) - 0919 435 885 (Tp.HCM)
  • Email: contact@vietnamnet.vn
  • Báo giá: http://vads.vn
  • Hỗ trợ kỹ thuật: support@tech.vietnamnet.vn
VietNamNet
Chủ Nhật, 28/06/2020 - 07:30

'Qua khỏi dốc là nhà' trái tim của tuổi thơ

icon

Chính trong tập truyện 'Qua khỏi dốc là nhà' với đề tài là chuyện hàng ngày của người con gái nông thôn thì tôi đã bị thôi miên bởi lối văn viết như không viết gì. 

{keywords}
'Qua khỏi dốc là nhà' - Phan Thúy Hà

"Đã đọc sách của Phan Thúy Hà chưa? Một tác giả đang gây tiếng vang lớn trên văn đàn với các cuốn như: Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi, Gia đình và mới đây có thêm cuốn Qua khỏi dốc là nhà", một người bạn chuyên viết phê bình văn học hỏi. Tôi biết một Phan Thúy Hà giỏi văn quê ở xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh). Nhưng sách của Phan Thúy Hà ư? Viết về cái gì vậy? 

Từ câu hỏi ấy của người bạn đến lúc tôi gấp cuốn Qua khỏi dốc là nhà hơn 200 trang của Phan Thúy Hà chỉ trong hai ngày. Tôi đã đọc rất say mê và tưởng tượng, con dốc nhà tác giả là con dốc nhà tôi, qua khỏi dốc tuổi thơ chị chính là qua khỏi dốc tuổi thơ mình.

Từng mẩu chuyện nhỏ như từng tấm vé ngược tuổi thơ được Phan Thúy Hà viết bằng những cảm xúc li ti, li ti nhưng bao tâm hồn lớn lên từ đó. Tác giả kể những điều be bé thường bị bỏ qua vì xem như "chuyện vặt" của đất và người Lối Son nói riêng và Hương Khê nói chung...

Chuyện vặt nhưng là chuyện đời, chuyện người nên lại làm người đọc không khỏi rưng rưng. Bằng những chi tiết đời thường, tác giả lay nỗi nhớ, gọi tên từng thứ thân thuộc, làm cho ai từng sống qua đều tự hào vì những nhọc nhằn... rất Hương Khê.

Cuốn sách bắt đầu bằng câu chuyện một giáo viên trường tiểu học Phúc Đồng mà tác giả gọi là cô Hạ. Cô Hạ ra đề văn tả ngôi nhà của em, cha của tác giả Phan Thúy Hà viết hộ rồi bài văn được điểm cao. Cô Hạ đọc to bài văn cho cả lớp, cô phân tích bài văn của Hà hay bởi Hà đã yêu ngôi nhà của mình từ trong khó nhọc. Cô gặp ba mẹ của Phan Thúy Hà thường dừng xe giữa dốc để khen Hà có năng khiếu Văn. Bài văn năm xưa là một lời nói dối của con trẻ nhưng việc cô giáo thương từng câu chữ của trò dường như đã nuôi lớn và khắc ghi sâu đậm tình yêu ngôi nhà, tình yêu gia đình thực sự. Đó là mạch nguồn cho tên cuốn sách dài của tuổi thơ, ký ức, cuốn sách của một tác giả đang thành danh hiện giờ. Bài văn mở đầu dung dị: "Qua khỏi dốc là nhìn thấy ngôi nhà em".

Mọi thứ ở nơi "qua khỏi dốc" dường như chưa bao giờ qua hết ấy là cả một ngôi nhà tinh thần mà có lẽ không một đứa trẻ nào không có, chỉ là người ta có bỏ quên, có gọi tên hay không mà thôi.

Qua ngôi nhà của tác giả Phan Thúy Hà, chúng ta hiểu rõ: nhà - không phải là không gian êm đềm, ấp áp "Ba là cây nến vàng, mẹ là cây nến xanh, con là cây nến hồng", mà còn là ba công tác xa, mẹ còm cõi chiu chắt nuôi con, con sớm biết lấy tiền mua một tạ gạo trong cơn sốt giá khi mẹ phải chăm ba ở bệnh viện tỉnh. Hàng xóm không chỉ có những nhà nông hiền lành, còn có cả những anh say rượu đốt nhà, đánh vợ đến nỗi vợ phải bỏ đi.

Từ đó, ta thấy tác giả có khi như một người phụ nữ rôm rả khi thì thầm tâm sự ngồi lê kể chuyện quanh xóm với những người thân. Từng chân dung về những người hàng xóm, từng con chó mực, con lợn nái, con bò, cái lá tàu bay, một bức hình cha bóp bụng cho con kỷ niệm... những mong đợi của trẻ thơ, những xót thương dường... chị khắc họa chỉ bởi một niềm thương nhớ.

Tất cả được kể như thể không phải là Thúy Hà sinh năm 1979 đã U40 đang kể mà như Thúy Hà mới mươi mười lăm tuổi với ánh nhìn trong trẻo, hồn nhiên, sợ hãi, mơ hồ.

Tôi nghĩ tác giả đã chép ảnh cuộc sống bằng trí nhớ nhưng chính xác như viết cuốn nhật ký vậy. Những câu chuyện: mẹ sinh em bé, thích con bò nên trốn nhà chăn bò theo chị giữa trưa để về bị mẹ đánh roi, đánh con mực chết vì nghi bị dại, con heo nái bị ô tô tông, những gánh nước lên dốc xuống dốc, những cử chỉ chằm nón của mẹ, những đêm mót lúa mót khoai liều lĩnh và thấm đầy khó nhọc, những hạnh phúc đợi chiếc đài, xem phim, đoàn văn công về... kể tài tình... chuyện nối chuyện.... đời nối đời... dài dằng dặc nỗi nhớ.

Qua khỏi dốc là nhà, nhà không chỉ là nơi che mưa nắng. Nhà đó là linh hồn, là nơi san sẻ, là bà con lối xóm tối lửa tắt đèn, là láng giềng, là tình bạn đẹp đẽ như việc giấu mẹ mua một bức ảnh của Hà treo trong nhà mà sau này Hà về nhìn lại cũng thấy ngượng ngùng.

Ta thấy những giọt mồ hôi đã rơi khi con người lên dốc xuống dốc của phận người, những trăn trở của họ hay của chính Hà khi ông Chắt bị dân làng "chôn sống" với tin đồn ông nuôi con ma thuốc độc, khi những cái cây đa bị chặt, khi dốc Lối Son bị san lấp, khi những khu vườn bỏ hoang mà người dân sống túng thiếu, đến rau cũng nhập từ đẩu từ đâu.

Đọc rồi, ta tự hào mỗi lúc chị Phan Thúy Hà reo lên: Hương Khê! Hương Khê! Về nơi đã ấp iu tuổi thơ dịu ngọt trong mồ hôi và nước mắt như lúc mẹ của tác giả mới ra trường hỏi muốn về đâu công tác. Lại không ít khi phải xa xót cho phận đời phận người với những từ có lẽ quá quen thuộc nhưng thực sự nếu không đọc thì tôi không hiểu hết như: Đi lấy mật ong rừng ở Lào, đi Nam, xuôi chè...

Rồi cũng có khi cảm thấy thật đồng tình cả những thất vọng trẻ thơ của chị. Thi học sinh giỏi huyện thì tả cây bút chì, thi năng khiếu tỉnh thì bị bêu rếu trên tạp chí Hồng Lĩnh vì thí sinh khi phân tích thơ theo cảm quan độc lập.

Không biết có ai giống tôi không, khi cảm thấy tiếc nhớ. Tiếc nhớ không chỉ là tuổi thơ một đi không trở lại mà còn tiếc nhớ cái không gian sống có cả văn hóa làng đã bị bào mòn đến hững hụt. Từng trang viết của Phan Thúy Hà chính là từng góc quê một thời. Người ta bây giờ bữa ăn thừa đổ không tiếc có nhớ mùi chiếc kem đầu tiên, gói mì tôm đầu tiên chỉ dành cho khách đến thăm nhà không...?

Tôi thật sự ngưỡng mộ tác giả Phan Thúy Hà. Không phải vì chị đã viết rất xuất sắc về cuộc cải cách ruộng đất như trong cuốn Gia đình, không phải là di họa của hậu chiến tranh như Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi. Chính trong tập truyện Qua khỏi dốc là nhà với đề tài là chuyện hàng ngày của người con gái nông thôn thì tôi đã bị thôi miên bởi lối văn viết như không viết gì. Trái tim tôi không ít lần thổn thức khóc, cười bởi gặp được khoảng trời tuổi thơ tôi. Có lẽ Phan Thúy Hà chỉ trước tôi một thế hệ còn tôi là gạch nối ở giữa đó, tôi biết mơ hồ về những khoảng không chật vật, những lay lắt, những đau đớn, những buồn tủi khi được tác giả tả lại cho rành mạch trong Qua khỏi dốc là nhà... lại thấy yêu thêm những con dốc về nhà, về quê, về tuổi thơ.

Quảng cáo

Bảo Hòa

vads-Quảng cáo truyền thông
vads-Quảng cáo truyền thông

Tin nổi bật

vads-Quảng cáo truyền thông
vads-Quảng cáo truyền thông
vads-Quảng cáo truyền thông

Chuyện đặc biệt về NSND có bố từng làm cục trưởng

NSND Phạm Ngọc Khôi theo học tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam) khi mới 7 tuổi. Cha ông từng là Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn.
   

Con gái Thanh Thanh Hiền trở lại sân khấu với vai Thị Nở

Thái Phương - con gái Thanh Thanh Hiền sẽ trở lại sân khấu với vai Thị Nở trong vở nhạc kịch "Giấc mơ Chí Phèo" diễn ra lúc 20h ngày 6-7/6 tại Nhà hát Hồ Gươm, Hà Nội.
   
back_to_top

選擇汪精衛中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體

選擇汪精衛 中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體 因為站錯了隊伍 北洋軍閥頭腦比汪精衛清楚 所以一戰才能拿回山東 孫文拿德國錢,他是反對參加一戰 選擇蔣介石, 中國將淪為共產主義國家 因為蔣介石鬥不過史達林 蔣介石即使打贏毛澤東 中國一樣會解體 中國是靠偽裝民族主義的...