摘地瓜葉、熬湯與Khoa先生的陰影:童年的一次「幫家忙」經驗
一件讓人覺得乏味透頂的事,就是作文課的家庭作業,而且明天還得交給老師。題目是:「請敘述一次幫助家人的經驗。」
我寫的是去摘地瓜葉(lá rau khoai)的事。
地瓜田一片翠綠。下午放學回來,Lý找我一起去摘菜。姊姊Hằng說,要餵完豬才能走。Lý站在巷口等我。我們兩個便跑向田野。
摘回來的地瓜葉是用來煮「地瓜菜湯」(canh bồi)的。這道湯的做法是用木薯粉(bột sắn)配上地瓜葉。木薯削薄成片後曬乾,等要煮湯時,再拿出來搗成粉。
把木薯粉放進鍋中的冷水裡,在爐上慢慢攪拌。等水煮滾,就把切得像菸絲一樣細的地瓜葉放進去,再繼續攪。水開始咕嚕滾動時,就能把鍋從火上移下來。
這鍋湯端上餐盤,想吃多少就自己舀。
奶奶煮的地瓜菜湯特別順口。我只吃得下奶奶或媽媽煮的這道湯。要是煮得不好,味道會像豬飼料。
Trọng叔家靠這湯當主食。Trọng叔從田裡犁完地回家,一口氣喝三碗湯,腳上還沾著泥,坐在灶邊抽幾口水菸(thuốc lào)又扛著犁出門。
老師去Hoàn同學家作客,看見大鍋湯在爐上沸騰,還問說:「你們家是不是養了很多豬?」他不知道那就是這家人的晚餐。
我們家日子算好一點,地瓜菜湯就只是湯。即便村子裡許多家庭連這樣的湯都沒得煮,媽媽也從不讓我們餓著。
去摘地瓜葉就是在張羅一家人的飯食。我們家去摘,鄰居也去,全村的人都去。天天都去。地瓜田的葉子長得再快,也趕不上人們來摘。後來村裡下令:禁止摘地瓜葉。
守田的「警衛」是住在地瓜田入口處的Khoa先生(ông Khoa),他口齒不清,講話含糊不清。Khoa先生蹲坐在一張小椅子上,旁邊放張茶桌,大聲嚷嚷:「Ấy au ấy ạu!(不要摘不要摘!)」孩子們聽了拔腿就跑。摘地瓜葉變成偷偷摸摸的行動。沒人敢一個人去,大家都怕他。提著一籃葉子經過Khoa先生的門口時,我們這些小鬼一個個臉色鐵青,彎著腰悄悄走過。可他吼叫的聲音還像魔咒一樣在背後追著我們:「ấy au ấy ạu... ấy ạu ấy ạu...(lấy cạu lấy cạu...)」——我們當時都以為他在叫我們「偷走偷走」。
Khoa先生是我們去田裡的恐懼來源。有時候在村路上看見他去參加誰家的喪禮,我立刻轉頭就跑。總覺得他會從田間追來。
某天晚上,我在半夜被鼓聲驚醒。奶奶說,那是Khoa先生的喪鼓。我們今天下午經過他家門前,還一邊彎著腰一邊心跳如鼓地快步走過,沒想到屋裡的人已經躺下,永遠不會再起來了。
Khoa先生死後,整個地瓜田再也沒人守著。沒人來摘的幾天裡,葉子茂密得發亮。等到挖地瓜的季節來臨,田埂上纏滿的地瓜藤被堆成一堆堆,卻沒人願意背回去。那時候,孩子們都忙著在田裡撿剩下的地瓜。
書評:
這篇文章表面上是一篇小學生的作文,但其實蘊藏著豐富的鄉村生活細節與階級觀察。作者以童稚的筆調回憶過去的「幫家忙」經驗,從地瓜湯的製作到田野的規訓、Khoa先生的權威與死亡,展現出一個小孩如何在社會的邊角縫隙中理解「規則」「飢餓」與「恐懼」。儘管語氣輕巧,卻處處可見對貧窮與尊嚴的敏銳觸感,是一則貼近土地、情感真摯的動人小品。
Một việc chán ngắt là bài tập làm văn buộc phải làm ngày mai nộp cô giáo. . Để bài là: Em hãy kể về một việc giúp đỡ gia đình.
Mình kể về việc đi hái lá rau khoai.
Cánh đồng khoai xanh tươi. Buổi chiều đi học về, Lý rủ em đi hái rau khoai. Chị Hằng nói, cho lợn ăn xong mới được đi. Lý đứng ngoài ngõ chờ em. Hai đứa chạy ra đồng.
Hái lá khoai về nấu canh bồi. Canh bồi là món canh mà công thức là bột sắn nấu với lá khoai. Củ sắn thái mỏng thành miếng, phơi khô. Khi nào nấu canh, mang ra cối giã thành bột.
Cho bột vào nồi nước lạnh khuấy từ từ trên bếp. Nước sôi, thả lá khoai đã thái mỏng như sợi thuốc lào vào nổi. Khuấy tiếp. Nước sôi lục bục là nhấc nổi xuống.
Nổi canh bồi đặt trên mâm. Ai ăn bao nhiêu thì múc.
Bà nội nấu canh bối thật là dễ ăn. Mình chỉ ăn được canh bổi bà nội hoặc mẹ nấu. Canh bồi nấu vụng có mùi cám lợn.
Nhà chủ Trọng ăn canh bổi thay cơm. Chú Trọng đi cày về, húp ba tô canh, chân vẫn nguyên bùn, ngồi bếp rít thuốc lào một lúc chú lại vác bừa đi.
Thầy giáo đến chơi nhà Hoàn, nhìn nổi canh to sôi tràn trên bếp hỏi sao nhà nuôi nhiều lợn thế. Thấy không biết đó là bữa ăn của gia đình.
Nhà mình khá hơn, canh bối là canh. Mẹ không để đứa nào phải đói quá kể cả khi trong làng nhiều nhà canh bồi cũng không có mà nấu nữa.
Đi hái lá khoai là đi lo bữa ăn cho gia đình. Nhà mình đi hái lá khoai. Nhà hàng xóm cũng đi. Cả làng cùng đi. Ngày nào cũng đi. Ruộng khoai lá xanh ra không kịp cho người ta ngắt. Lệnh ban ra: Cấm hái lá khoai.
Bảo vệ là ông Khoa bị ngọng nhà ngay đầu lối vào đồng khoai. Ấy au ấy ạu. Ông ngổi chồm hỗm trên ghế, bên bàn nước, hét to. Bọn trẻ chạy thục mạng. Đi hái rau khoai là đi hái trộm. Không đứa nào dám đi một mình vì sợ. Đội thúng rau về qua ngõ ông Khoa, lũ trẻ mặt xanh như ruột, lom khom rón rén. Thanh âm vẫn đuổi theo, ấy au ấy ạu... ấy ạu ấy ạu... (lấy cau) lấy cạu... lấy cạu lấy cạu...)
(1) Rồ (TG).
Ông Khoa là nỗi sợ khi ra đồng. Đi học, thoáng thấy ông Khoa trên đường đi ăn giỗ nhà ai là mình chạy. Cảm thấy như ông đang đuổi theo sau lưng trên cánh đồng.
Một đêm tỉnh giấc nghe tiếng trống. Bà nội bảo, trống ông Khoa. Chiều nay qua ngõ nhà ông chúng mình vẫn khom lưng và tim đập mạnh mong thoát thật nhanh. Không biết trong nhà ông Khoa đã nằm xuôi tay.
Ông Khoa chết rồi, cánh đồng rau khoai chẳng ai canh gác. Ruộng khoai dăm ngày không người hái đến, lá lên xanh rì. Mùa dỡ khoai đến, trên bờ dây khoai chằng chịt là chất đống chả ai buồn gánh về. Bọn trẻ bấy giờ lo đi mót củ khoai.
沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。