童年的蛇與花——記憶中的姐弟與鄰家姐

童年的蛇與花——記憶中的姐弟與鄰家姐


那時候,我們最常玩的朋友,是住在「霞(Hà)姑姑」家那兩姊妹。她們家在「村坡(Xóm Làng)」的斜坡邊上。母親常說,那家院子蛇多得可怕,去那兒玩像是找死,可我們偏要去,因為那裡「好玩」。


一切都聽姊姊的話


主事的是姊姊「黛(Đài)」。她把一本書放在門檻上說:「不能看,碰了會爆炸!」我們一群小孩躲在被子裡,心跳加速,拉著彼此的衣角,一步一步繞過那本書,誰也不敢偷看一眼。


黛姊是「大姊頭」,她說什麼,我們就信什麼。她說:「這磨子碰一下會把你送到蘇聯去,這吊床盪太猛就會飛到中國。」蘇聯與中國是遙遠又陌生的地方,幾乎像是外太空,去了就回不來了。


蛇的王國


那時村裡到處都是蛇。霞(Hà)姑姑家菜園裡有眼鏡蛇,曾經咬死過一頭牛。我們家柴棚也有壁虎與小蛇。聽說壁虎煮粥很好吃,但我們從沒看過有人真的抓來吃。


霞(Hà)姑姑家的菜園,蛇特別多,尤其是「水牛蛇(rắn trâu)」,黑黝黝一大條,在院子裡橫行無阻,仿佛這世界本來就是它們的地盤。黛姊說:「水牛蛇不咬人,別怕。」


我們一邊跳格子,一邊看著那些粗壯如小臂的黑蛇在地上滑行,有時還會爬上牆、屋柱,甚至蜷在地上像一圈老人家的絲巾。


有一次我太累,倒在她家睡著。睜眼時,一條蛇正掛在屋梁上看著我,另一條正從我頭上滑過。我屏住呼吸,悄悄溜出去,看到其他孩子正在院子裡撿「星樹種子」編成手鍊。


貧窮與消失的老人


這時,「楊公公(ông Dương)」拄著拐杖顫巍巍地下樓,手裡拿著破碗來跟黛姊她們要「醃茄鹽水(nước muối cà)」。那是我們家裡幾乎每天的主食,他卻連一缸茄子都沒有。他只敢跟鄰居小孩要那些快要倒掉的鹽水回家煮。黛姊從廚房拿出鹽水,裡頭有發酵後的濃濃香氣。楊公公一邊咳嗽,一邊緩慢走回去,身後還有一條蛇靜靜跟著。


楊公公病了整整一個月,沒人探望,直到有一天聽見喪鼓響起,我們才知道他走了。


花與嫉妒


黛姊家前有一片「雞冠花(mào gà)」,我們想要一棵來種,可是種不起來。某天中午,我跟姊姊「恆(Hằng)」偷偷去拔了最漂亮的一棵。被發現後,黛姊跑來我們家,說她要想辦法把它拿回來。


晚上,我們害怕她來搶花,就把它藏到房間。第二天再種回去,恆姊還想出用小木條圍住根部。可是那棵花隔天就枯萎了,再怎麼澆水都救不回來。


模仿與改名


黛姊做什麼,我們就跟著做。她去拾地瓜,我們就跟著挖。她換地塊,我們也換。最後什麼都沒挖到,她一臉不悅看著我們。


後來,霞(Hà)姑姑家的孩子們改了名字,因為她說他們常生病,換名字比較好養。「佩(Thi)」叔說那家的風水不好。我也跑回家,鼓著腮幫子說:「我要改名,我想叫紅(Hồng)!」


夢與離別


「倍(Bội)」叔是軍人,駐地就在村裡,所以常回家。他會帶小飛機和玩具娃娃給孩子們。每次他回來,我就想念遠方的父親。


但村坡的生活太艱難了。後來,霞(Hà)姑姑一家搬到了「營村(Xóm Trại)」。那裡雖也是同一鄉,但對我們來說就像遷徙。爸爸媽媽也曾想搬去那裡,可是一直沒下決心。


村坡的一頭通往外地,一頭延伸進營村。越來越多家庭離開。有些人進營村圈地,成了自己的。那是新的經濟區。如今,在營村的地皮值錢得可以換一間河內的公寓。


自從她們搬去營村,我們幾乎不再見面。偶爾在學校遠遠看到,也像陌生人。從牙牙學語就一起玩耍,天天追逐,說分就分。小孩的友情,大概就是這麼回事吧。


書評:

這是一篇極具懷舊色彩的童年回憶錄,以樸實細膩的語言描繪出1980至1990年代越南鄉村孩童的日常,既有對遊戲與友情的純真描寫,也有貧窮與失落的現實襯托。蛇成為象徵性的元素——既是自然的一部分,也是鄉村生活潛在的恐懼與神秘感。文章以看似平淡卻情感豐富的敘述方式,讓人讀來一笑一嘆,餘味深長。


Bấy giờ bạn của chúng mình là chị em con nhà cô Cúc. Nhà cô Cúc bên dốc Xóm Làng. Nhà cô Cúc rắn ơi là rắn, chúng mày sang đó chơi làm gì. Sang đó chơi vui. Chị Đài chủ trò. Một cuốn sách đặt trên bục cửa, chị Đài bảo không được nhìn, chạm vào nó nổ đấy. Bầy trẻ trùm kín chăn tim đập thình thịch níu áo nhau nhích từng bước qua cuốn sách, tuyệt không hé nhìn.


Chị Đài là “đại ca.” Chị nói gì bọn mình cũng tin. Chị đe dọa, cối xay này chạm vào là bay sang Liên Xô, võng này đưa mạnh quá là cả lũ bay sang Trung Quốc đấy. Trung Quốc và Liên Xô là nơi nào đó xa xôi, nằm ngoài Trái Đất, bay đến đó không về được nữa.


Thuở đấy khu vườn nào cũng có rắn. Rắn hổ mang ngoài vườn nhà cô Quang cắn chết một con bò. Bác Đường trong một lần về phép phải nhờ người phá khu vườn rậm biến thành vườn trồng sắn, trồng rau theo mùa vụ. Giàn củi nhà mình có những con rắn mối.


Rắn mối nghe nói nấu cháo rất thơm và bổ dưỡng. Nghe nói vậy nhưng chưa khi nào mình nhìn thấy ai bắt rắn mối làm gì. Khu vườn cô Cúc có nhiều ổ rắn trâu. Rắn trâu bò ngoài vườn vào nhà tự nhiên như thế giới này là của chúng. Mình không biết tại sao vườn nhà cô Cúc lại nhiều rắn trâu tới vậy.


Lũ trẻ nhảy qua các ô vẽ giữa sân chơi trò nhảy lò cò. Những con rắn đen trùi trũi như màu con trâu, dài bằng sải tay, thân hình gần giống như rắn hổ mang trườn qua trườn lại. Rắn trâu hiền, không cắn người đâu mà lo, chị Đài nói.


Rắn bò vào thềm nhà, leo lên vách, leo lên cột, leo lên mái nhà. Có khi rắn cuộn tròn lại như vành khăn cụ già bất động trên nền nhà đất mát lạnh.


Chơi đuổi bắt xong, mình mệt quá ngủ thiếp. Mở mắt, một con rắn nằm trên xà nhà đang nhìn mình. Một con rắn lướt nhẹ qua đầu. Mình nín thở. Chẳng nghe tiếng đứa nào quanh nhà. Mình rón rén dậy đi ra vườn. Ngoài ngõ mấy đứa đang nhặt hạt sao làm vòng đeo tay, đeo cổ.


Ông Dương chống gậy từ trên nhà ông đi xuống, tay run run cầm một cái bát mẻ. Ông xuống xin chị em nhà Đài nước muối cà. Vại cà muối mặn quanh năm nhà nào cũng có trong bếp là thức ăn chính trong mỗi gia đình. Ông Dương thậm chí một lu cà muối cũng không có. Ông chỉ dám sang xin bọn trẻ láng giềng thứ nước đổ đi về đun lên dùng. Chị Đài từ sau bếp đi ra. Nước muối cà có hương thơm cà muối để lâu ngày đã trở mùi. Ông Dương thở khò khè một tay cầm bát một tay chống gậy nhấc từng bước chân qua vườn. Một con rắn trâu bò sau chân ông. Ông ốm cả tháng không người qua thăm. Ông cứ sống như vậy, năm này qua năm khác, cho đến một hôm nghe tiếng trống báo ông Dương chết.


Trước sân nhà chị Đài có vạt hoa mào gà. Chị em mình xin một cây về trồng nhưng không được. Buổi trưa mình và chị Hằng sang nhổ trộm cây hoa đẹp nhất. Cầm phát hiện ra gọi chị Đài sang bên nhà mình nghĩ cách lấy lại. Đêm xuống, sợ mào gà bị bứng đi,mình bàn với chị Hằng nhổ cây hoa giấu trong buồng mai đem ra trồng lại. Chị Hằng nghĩ ra ý tưởng rào lại quanh gốc hoa là xong. Cây hoa hôm sau héo rũ, tưới bao nhiêu nước cũng không trụ được.


Chị Đài làm gì là chị em mình bắt chước. Chị đi mót chị em mình cũng đi mót. Chị Đài cuốc ruộng nào mình vào cuốc ruộng đó. Chị Đài bỏ đi sang ruộng khác, khi đào chán chê không được củ khoai sót nào, mình cũng ngưng cuốc đi theo. Chị quay sang nhăn nhó chị em mình.


Đàn con nhà cô Cúc lần lượt thay tên mới. Chị Đài nói, các con hay ốm mẹ đổi hết tên cho dễ nuôi. Chú Thi nói khí nhà bên đó không lành. Thấy người ta có tên mới, mình về nhà đòi cha mẹ đổi tên. Mình phồng má phát âm tên mới. Con muốn tên Hồng.


Chú Bội cũng là bộ đội nhưng đóng quân ở gần nhà. Chú hay được về nhà. Chú mang về cho các con khi cái máy bay khi con búp bê bé xíu. Chú Bội về, mình mong cha về.


Nhà trên dốc quá nhiều trở ngại. Chú Bội giải ngũ, gia đình cô Cúc chuyển đi. Đi vào Xóm Trại. Xóm Trại cùng trong một xã nhưng thuở ấy đó là một cuộc di cư đáng kể. Cha mẹ mình nhiều lần cũng muốn tìm một mảnh đất trong đó đưa gia đình đi nhưng nấn ná không quyết được.


Dốc Xóm Làng một hướng ra đồng ngoài, một hướng nối tiếp dốc Lối Son đi vào Xóm Trại. Những ngôi nhà cứ rời đi. Không đi được đâu xa thì đi vào Xóm Trại. Vào Xóm Trại khoanh một khu đất là thành chủ sở hữu. Xóm Trại là khu kinh tế mới. Bây giờ ai có đất Xóm Trại bán đi mua được căn nhà chung cư ở Hà Nội.


Chuyển vào Xóm Trại, chị em chị Đài và chị em mình hết gặp nhau. Đến trường thỉnh thoảng nhìn thấy nhưng như người không quen. Chơi với nhau từ khi chập chững tập đi, ngày nào cũng lăn lê đuổi bắt cùng nhau, đi rồi là thôi. Trẻ con là vậy, hay duyên bạn bè chúng mình chỉ đến thế.


😀😀😀😀😀😀😀😀😀

沒有留言:

張貼留言

注意:只有此網誌的成員可以留言。

康德《論永久和平》(Zum ewigen Frieden, 1795)

### 康德《論永久和平》(Zum ewigen Frieden, 1795)核心內容超簡明解釋 康德這篇短文是國際關係學的經典之作,被視為「自由主義國際關係理論」與「民主和平論」的源頭。羅伯特·卡根在《權力與弱點》中多次提到「康德的永久和平」,正是指這套思想。 #### 康德的...