---
父親放假回家,是每一個年幼孩子生命中最隆重的時刻。那時我上上午班,恆(Hằng)姐姐上下午班。我剛衝出教室,就看到恆姐姐站在門外等我。她拉我到一棵苦楝樹後,悄聲在我耳邊說出一個秘密消息。
「爸爸回來了嗎?」——這是我們姊妹倆常用來互相捉弄的把戲。怕我不信,姐姐打開書包給我看了一顆大柿子。
我立刻轉身就跑,飛奔出學校大門。爸爸真的回來了!像這麼大的柿子,只有爸爸從峴港(Đà Nẵng)才能帶回來。沒有腳踏車,想快一點就只能用跑的。山區孩子的腿力都很好。官道寬敞,我的心也隨著腳步怦然跳動。快點,再快點啊雙腿!跑到快到家時,我的腳步因激動而顫抖起來。
我不敢大叫,只輕輕地走著。沒看到爸爸。進房找不到爸爸,去後園也沒看到。水井邊的井台上,放著一個陌生的水桶,有人正在低聲交談。那口井就在柿子樹下,每年只有一兩個月會出水。爸爸這次帶回來一個鐵製水桶,繩子也繫得非常牢固。那個水桶後來用十幾年都沒有像光姑(Quang)家、陳叔(Trần)家那種水桶一樣漏水破底。
媽媽正在搓皂莢果(bồ kết),爸爸則一桶一桶地幫媽媽沖水洗頭。我不敢大聲喊,怕嚇到他們。一年、一年半、兩年,有時更久,爸爸才能休假一次。每次休假是十五天。每個休假日爸爸都會領到七兩米,除了我們家自用的部分,爸爸還會收到同單位的叔叔們幫忙湊的米。
我們寫信給爸爸,信開頭總會寫:「現在家裡米價多少」,結尾則總不忘叮囑:「爸爸回來時請多帶點米回來喔!」
爸爸回來,總是帶著滿滿的喜悅,因為家裡終於又有米吃了——哪怕是霉米或帶異味的米。爸爸休假結束後,媽媽就會把這些米分裝好:這部分省著吃,那部分借給正姨(Chính),這部分借給菊姑(Cúc)。
從清煉車站(Thanh Luyện)回家,爸爸會抄近路穿過田野。從峴港回來的火車不停清煉站,爸爸必須學會跳車。當火車駛近家鄉,他便守在車廂連結處,先把箱子與背包拋下,最後順勢一躍而下,順風飛出鐵道邊。躺在地上,等頭暈消退後,才小心檢查有沒有受傷。膝蓋沒擦破皮,就放心了。接著,他背起背包,在丟箱子的地方做上記號,等回家後再牽腳踏車來搬回去。
爸爸不只在白天跳車,也在半夜跳。若買不到普通車票,他整夜坐在貨車車頂。媽媽說,有一次深夜爸爸突然回來,把她嚇了一跳。那時爸爸從河內(Hà Nội)出差回來,火車路過清煉,他就冒險跳車,只為來看母子幾天。隔天一早,爸爸甚至忘了前晚把背包扔在哪裡,找不到了。
「怎麼不塞點錢給司機,讓他經過清煉站時故意慢點呢?」——爸爸從沒想到這招,真想到了也沒錢給人家。他每月積蓄早就買米買禮物給孩子們用完了。
十多天的假期轉瞬即逝。孩子們又問:「爸爸什麼時候回來?」媽媽坐在腳踏車後座,騎車送爸爸到清煉車站。那個窮士兵懷著不捨的心情,接過妻子遞上的車票錢。Cầu Treo 與 Rào Nổ 河畔,刻印著爸媽無數次惜別的足跡。
爸爸搭上火車,只留下詩句的依依不捨。媽媽踩著腳踏車回家,回到日常生活。那些詩句,她早已倒背如流:
> 橋邊你常站著等候
> 從清煉車站我回家
> 最惹人憐是那少女雙足
> 踏過稀疏木板時的猶疑…
**簡短書評:**
這篇回憶散文,以童稚的視角,描繪越戰時代越南家庭的相思與堅韌。父親的歸來,是家中難得的節日;而跳車、帶米、短短十五日的團聚,卻成了家庭珍藏一生的記憶。細膩的筆觸裡,滲透著時代的苦澀,也充滿樸實的愛。文字質樸而深情,是對一代越南軍人與其家庭最動人的致敬。
---
Cha về phép. Sự kiện long trọng nhất trong đời những đứa con bé bỏng. Mình học ca trưa, chị Hằng học ca chiều. Mình ùa ra khỏi lớp đã thấy chị Hằng đứng ngoài cửa chờ mình. Chị kéo mình lại sau gốc cây xoan, ghé thầm vào tai tin bí mật.
Cha về? Đây là trò chị em mình hay bày ra lừa nhau. Sợ mình không tin, chị mở cặp cho thấy một quả hồng to.
Mình vụt chạy. Lao ra cổng trường. Chính xác là cha về. Quả hồng to như thế là cha ở Đà Nẵng mang về. Không có xe đạp, muốn nhanh chỉ có chạy. Cặp giò đứa trẻ miền núi nào cũng khỏe. Đường quan thênh thang mình chạy với trái tim đập rộn rã. Phải chạy nhanh hơn nữa chân ơi. Chạy về đến gần nhà, bước chân mình run lên vì hồi hộp.
Mình không dám gọi òa lên mà bước từng bước nhẹ. Không thấy cha đâu. Vào buồng không thấy cha,đi ra vườn không thấy cha. Gác trên miệng giếng có một chiếc gàu lạ, có tiếng rì rầm nói chuyện. Giếng nước dưới gốc cây hồng. Giếng nước vài năm một, hai tháng mới có nước. Cha mang về một cái gàu bằng sắt với dây buộc rất bền chặt. Chiếc gàu hàng chục năm sau vẫn không bị rỉ nước thủng đáy như những chiếc gàu nhà cô Quang, ông Trần.
Mẹ vò bồ kết và cha đang giội nước lên gội đầu cho mẹ. Mình không gọi to sợ cha mẹ giật mình. Một năm, năm rưỡi, hai năm hoặc có khi lâu hơn cha được về phép một lần. Một lần về là mười lăm ngày. Mỗi ngày về phép cha được cấp bảy lạng gạo. Ngoài số gạo phần mình ra, cha còn được các chú, các bác trong đơn vị góp lại dành cho.
Những lá thư con gái viết vào cho cha, dòng đầu tiên là thông báo giá gạo ở nhà và kết thúc bằng lời dặn khi nào về cha nhớ mang thật nhiều gạo về cha nhé.
Cha về luôn mang theo niềm vui sướng ngập tràn là nhà lại có gạo, dù là gạo hẩm gạo hôi. Cha hết phép, mẹ bắt đầu đem số gạo ra chia phần. Phần này để ăn dè, phần này cho mự Chính vay, phần này cho cô Cúc vay.
Từ ga Thanh Luyện, cha đi tắt qua cánh đồng về nhà. Tàu trong Đà Nẵng về không dừng ở ga Thanh Luyện. Cha phải học cách nhảy tàu. Tàu về gần quê hương, đứng chờ sẵn chỗ khớp nối giữa các toa, cha ném rương đồ và ba lô xuống trước. Sau cùng là tung người thuận theo chiều gió. Gió đẩy cha văng xa đường sắt. Cha nằm im chờ qua cơn chóng mặt. Cha nằm im lấy lại thăng bằng. Cha xem chỗ nào bị trầy xước chảy máu không. Cha đứng dậy, đầu gối không bị trầy khớp, vậy là yên tâm. Cha quay lại tìm rương và ba lô. Khoác ba lô lên vai và làm dấu nơi chiếc rương gỗ, về nhà mang xe đạp ra lai rương.
Nhảy tàu ban ngày, và nhảy tàu vào cả giữa đêm. Không mua được vé tàu chợ, cha ngồi suốt đêm trên nóc tàu hàng. Mẹ kể rằng có một lần nửa đêm cha về khiến mẹ giật mình. Cha đi công tác ngoài Hà Nội về, tàu qua Thanh Luyện, cha nhảy liều xuống thăm mẹ con ít ngày. Sáng mai ra, cha không nhớ đêm qua mình ném ba lô chỗ nào để tìm nữa.
Sao không bồi dưỡng cho người lái tàu chút tiền để khi qua ga họ cố tình đi chậm? Cha không nghĩ ra được cách đó, mà nghĩ ra cũng không có tiền đưa cho người ta. Lương tháng dồn lại cha đã mua gạo, mua quà hết cho các con rồi còn đâu.
Mười mấy ngày phép chóng vánh qua. Đàn con lại hỏi khi nào thì cha về. Mẹ ngồi sau xe đạp ra ga Thanh Luyện tiễn người đi xa. Người lính nghèo ngậm ngùi cầm tiền mua vé tàu vợ đưa cho. Cầu Treo, Rào Nổ in dấu chân mẹ cha bao lần lưu luyến.
Người lên tàu rồi còn lại những câu thơ bịn rịn. Mẹ đạp xe về với những ngày thường. Những câu thơ mẹ đã thuộc lòng. Bên cầu anh thường đứng đợi/ Từ ga Thanh Luyện em về/ Thương lắm bàn chân con gái/Ngập ngừng thanh gỗ lát thưa...
😀😀😀😀😀😀😀😀
沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。