Khung huấn luyện mười lăm ngày
十五天訓練期
我上次回香溪時最後寫下的是關於慶叔的事。1972年在廣治偵查任務中,慶叔曾在敵人槍林彈雨中背著忠叔撤退。
起初我以為這篇關於慶叔的文章最容易寫,因此留到最後。
播放錄音帶,回想我們兩次的對話。
卻不知該怎麼寫。他說故事總是東拉西扯,很難找到一條清晰主線來鋪陳。
到底該寫他在廣治堅守的八十一晝夜,
還是他和妻子結婚後,她剩七天假期,他有兩週假,但兩人各自回部隊,誰也沒有送誰?
早上妻子離開,中午丈夫出發。
&&&
他妻子是青年突擊隊員,結婚就像是完成一項任務,完成後便各奔東西。四年集體生活磨滅了她的個人情感與私生活,她已習慣了服從命令。
1972年4月慶叔入伍,同年10月她也上了戰場。1976年結婚,1977年雙雙退伍返鄉。返家第六天,他妻子誕下長女。這孩子長大後精神異常,後來領有橙劑受害補助金,每月八十多萬越盾。
我尋找慶叔家時,路上問路,一人問我:「你說的是那個 '三份津貼之家' 的慶叔嗎?」
「三份津貼之家」是指父母領著因子女與自身服役所獲的三筆補助金,全家每月總計超過三百萬越盾,村裡人一提就知道。
正因有這些補助,村政府不批准他們申請防洪屋。他們只好在園子後方高地上用茅草搭起屋頂,躲避水災,但因資金不足無法完工。與兒子同住的舊屋年年淹水。
夫妻倆幾乎每月輪流住院。戰爭時期留下的病根難以治癒。他的手顫抖,只能在村中騎摩托車行動。
我剛到時,天氣酷熱難耐,忽然一片烏雲壓來。他妻子在屋內忙著,跑出來雙手朝天祈求:
「求老天別下雨,田裡稻子還沒收割。」
對農民而言,收割前遇大雨是一場災難,除了雙手合十向天乞求,無能為力。
&&&
昨天我去了太平——一個戰爭期間未受轟炸的鄉村。中午我獨自走進稻田閒逛,與一村民閒聊時說:
「這裡應該少人參軍吧?」
對方反駁:
「你錯了,我們村傷兵最多!」
然後坐下來掰手指數人名,還邀我去拜訪一位他覺得有趣的村民。他說這位老兵所在部隊曾夜宿本村一晚,當晚他趕緊回家結婚。婚禮僅持續了三十分鐘。
&&&
我原以為自己村是全國參軍最多的村。但為何像太平這樣未受戰火摧殘的地方,仍有這麼多年輕人上戰場?
&&&
回到河內後,我接到慶叔來電。他問我是否找到阮春七副連長的親人了?他們把阮帶回故鄉了嗎?
阮春七副連長帶領部隊從香山前往廣治,途中遭B52轟炸身亡。他老家在河靜省香山縣山含社。
我剛到時他就提起此事,並打電話向朋友再次確認他的埋葬地點。副連長膚色黝黑、頭髮捲曲、身材高大。
「我們的副連長」——他與朋友如此稱呼,好像那段故事還在現在發生。
我們曾親手挖坑,用雨布包裹,把他埋在廣治省甘露縣甘全社芭通村的一棵老龍眼樹下。
副連長擔心我們週日回鄉會逃兵,他擔心得要命。
慶叔問我,7月27日晚是否有看一部拍攝於廣治古城的電影?片中有些情節和他跟我講過的梁的故事很相似。
梁是錦川人,原是林場工人,被徵召入伍。
&&
十五天訓練期。
以前幾屆訓練一年、九個月、六個月,最少也有三個月。我們只有十五天。
想像一下,十五天能學什麼?
我們那時剛學瞄準聚焦,阿映連怎麼拿槍都還不會。
4月12日下午,我們接令立即前往廣治增援。
下午五點接到命令,當晚就得渡過石罕河。
「報告長官,我不會游泳。」
長官掏出手槍:「這是戰鬥命令。不會游的,由三人小組把你帶過去。」
我們三人一組:我、梁和阿映。
吹起充氣袋,把背包和軍裝裝好綁緊。抓緊浮袋。抓緊同志。
中流遇大水,浮萍密佈。河面寬闊。對岸炮火、機槍如雨。梁慌亂呼救。我掙扎著游向對岸。他的屍體漂流到越門口。
&&&
廣治八十一天八十一夜。
那時我想什麼?只希望自己手斷腳折,能早點撤出。早一天就多活一天。在這裡遲早都會死。
「哎呀爸爸媽媽啊,哎呀同志們救我啊!」
最後的慘叫聲迴盪在河面。那是無人包紮的傷兵在哀號。
血結塊了,乾黑凝在牙齒。他渴得要命,我們正往前衝。停下來,衛生兵給他打一針不知是什麼強心劑。我給他一蓋水壺蓋的水。只能一蓋,多了三蓋他會死。
&&
天上照明彈,對岸實彈橫掃,這邊炸彈如雨——地面炸、空中炸、鑽地炸。噴射機、直升機、炸彈,我們繼續往前衝。他後來如何,無從得知。
五門炮運上白馬峰,不再從廣治外圍射擊,而是由此對外開火。敵人發現後撤退,12.7mm火力不足,我們改用37mm防空炮平射步兵。敵軍俘虜曾問:「你們共軍哪來這種兇猛的武器?」
&&
永是為我們鋪路把炮拉上山的姑娘之一。我們互有好感,卻誰也沒說。戰爭繼續,她撤後我前進,再無相遇。回鄉後各自成家。每當想起戰場情事猶如昨日,然而永已成中風老人,臥床不起。
&&
五年戰場歲月,是長還是短?下雨時,坐著喝酒啃花生,我又思緒翻湧。想起這個那個,死的活的。
勇因讀書逃過一劫,成了全連唯一倖存者。
英耳聾,是因B40火箭筒開火超標。本規定一天最多六發,他打了十二發,實戰逼不得已。
晚餐從下午四點吃起。吃完反而比吃前還餓。長官允許晚上回營再煮點,但一直等不到。肚子咕嚕咕嚕,大家偷偷去找吃的。大隊廚房在燉兩鍋水牛肉,是被炸死的村牛。每人偷一塊到樹下吃。吃完回來躺在掩體門上吊床。奇躺最外,我在中間。碎彈切斷奇的脖子,他頭飛進掩體,落在我眼前。
&&
我在東河守哨,離杜家五公里。有次去看他家,兩老體弱,走路不穩,只能在地上爬。家如破棚,一陣風能掀屋。永——杜妻在單位,未回家。
他母對我說:
「孩子,你勸杜回家解決家事,哪有這種夫妻?結婚後他去廣治,她去農場,還跟別人生孩子。他知道卻不吭聲,她照樣來部隊看他,下午還提桶澆菜呢。他不講,只因不想失去多年來深愛的漂亮妻子。」
&&
1975年春洛戰役,缺連幹,杜和他一起被派至一線,杜戰死。死前三天剛升軍階。口吐鮮血,身體鬆軟。他為杜收屍,向我描述杜死時模樣。
&&
1975年5月,部隊在龍城休息十五天。我們收到法院通知信,告知杜應回永靈法院處理妻子永的離婚案。他拿著信,淚灑當場。
&&
六十歲第一次來河內,找到電話,馬上打給忠問地址去拜訪。忠說他正忙,是大公司老總。我只是個農夫。曾經九個人共吸一根菸,分食一塊乾糧,如今各奔東西……
若您希望我進一步整理成散文格式、新聞報導或用於投稿的文風,也可以協助處理。
Người cuối cùng tôi viết trong chuyến về Hương Khê vừa rồi là chú Khánh. Chú Khánh đã cõng chú Trung ra khỏi làn đạn của địch trong đêm đi trinh sát ở Quảng Trị năm 1972.
Ban đầu tôi nghĩ bài viết về chú sẽ là dễ nhất nên để dành viết sau cùng.
Mở băng ghi ầm ra. Nhớ lại hai buổi trò chuyện.
Không biết viết thê' nào. Chú kê’ chuyện nọ lan man sang chuyện kia. Thật khó để tìm được một cốt truyện nào để lựa chọn làm mạch chính.
Viết chuyện tám mươi mốt ngày đêm ở Qụảng Trị, hay chuyện cô chú cưới nhau xong cô còn bảy ngày phép, chú còn hai tuần phép nhưng ai về đơn vị người nấy. Vợ đi buổi sáng, chồng đi buổi trưa không ai đưa tiễn ai.
Vợ chú là thanh niên xung phong. Lấy chổng như một nghĩa vụ. Xong nghĩa vụ thì đi. Đời sống riêng tư, cảm xúc riêng tư bị triệt tiêu sau bốn năm sống với tập thể. Cô không cảm thấy thoải mái sống đời sống cá nhân. Cô đã quen với mệnh lệnh.
Tháng 4 năm 1972 chú nhập ngũ thì tháng 10 năm đó cô cũng lên đường. Năm 1976 cưới. Đến năm 1977 cả hai cùng xuất ngũ về quê. Về đến nhà sáu ngày người vợ sinh đứa con gái đầu lòng. Đứa con lớn lên thần kinh không được bình thường. Vài năm lại đầy chị được nhận hỗ trự chất độc da cam mỗi tháng hơn tám trăm nghìn đổng.
Tôi tìm nhà chú Khánh, một người dần chỉ đường đã hỏi, có phải là ông Khánh nhà có ba lương không.
“Nhà có ba lương”. Chế độ của con và bệnh binh cho cha mẹ. Tổng tiền hơn ba triệu đồng một tháng cho cả ba người.
Nhà có ba lương là nhà có ba nguồn tiền cố định mỗi tháng nhắc đến cả làng ai cũng biết.
Nhà có ba lương nên cô chú xin xã hỗ trợ làm nhà chống lũ không được xét duyệt. Cô chú lợp một căn nhà mái tranh ở mô đất cao phía sau khu vườn để tránh lũ nhưng không đủ tiền để hoàn thiện. Ngôi nhà đang ở cùng con trai năm nào lũ cũng tràn vào.
Tháng nào cô chú cũng thay nhau đi viện. Những căn bệnh thời chiến tranh bào mòn sức khỏe khó chữa trị. Tay chú run chỉ đi được xe máy loanh quanh trong làng.
Tôi vừa đến. Trời đang nắng nóng oi bức đột ngột mầy đen kéo đến. Cô đang làm trong nhà chạy ra hai tay vái lên trời. Con cầu xin trời đừng mưa lúa ngoài ruộng chưa gặt xong. Người nông dần sắp đến ngày thu hoạch trời đổ mưa lớn là run sự. Chẳng biết làm gì hơn ngoài hai tay vái lạy thẩn trời thương xót.
Hôm qua tôi đi Thái Bình. Một làng quê không bị bom đạn trong chiến tranh. Đột nhiên tôi nói với một người gặp ở ngõ khi buổi trưa lang thang ra cánh đồng lúa. Ở đây chắc ít người đi bộ đội. Ối dời cô nhầm to rồi, làng này người bị thương nhiểu nhất đấy cô ơi. Người đó ngổi xuống nhẩm tính, liệt kê số người đi B. Và rủ tôi đi tới nhà một người trong làng mà họ cho là rất thú vị để tôi tìm hiểu. Đơn vị ông ấy đi qua làng một đêm. Ông tranh thủ về nhà cưới vợ. Đám cưới diễn ra ba mươi phút trong đêm.
Vậy mà tôi đã tin rằng người làng quê tôi đi bộ đội nhiều nhất cả nước. Làng quê không bị bom pháo như ở đây tại sao vẫn nhiều thanh niên xung phong ra trận?
Về đến Hà Nội tôi nhận được điện thoại chú Khánh. Chú hỏi đã tìm được người nhà đại đội phó Nguyễn Xuân Bảy cho chú chưa, hỏi họ đã đưa ông về quê chưa.
Đại đội phó Nguyễn Xuân Bảy đưa quần đi từ Hương Sơn vào Qụảng Trị. Trên đường đi ông bị trúng bom B52. Qụê ông ở xã Sơn Hàm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Chú nói chuyện này đầu tiên khi tôi đến. Chú gọi cho một người bạn để khẳng định thêm lẩn nữa thông tin về nơi chôn cất. Đại đội phó của ta da bánh mật, tóc xoăn, người cao to.
Đại đội phó của ta. Chú và người bạn nói với nhau như vậy. Như thể chuyện đang thời hiện tại.
Chúng ta đã đào huyệt, bọc tăng chôn đại đội phó dưới gốc cầy nhãn cổ thụ làng Ba Thung, xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Đại đội phó của ta đã lo lắng khi ngày chủ nhật ta bỏ vể quê. Ông sợ bọn ta đào ngũ.
Chú Khánh hỏi tôi tối ngày 27 tháng 7 vừa rồi có xem một bộ phim quay cảnh ở thành cổ Quảng Trị không. Trong phim đó có nói đến những trường hợp gần giống như nhân vật Lượng mà chú đã kể cho cháu nghe đấy.
Lượng người Cẩm Xuyên, đang làm công nhân lâm trường thì được gọi đi nhập ngũ.
Khung huấn luyện mười lăm ngày. Những lứa đi trước đó được huấn luyện một năm, chín tháng, sáu tháng, ít nhất cũng là ba tháng. Chúng tôi thì mười lăm ngày.
Thử tưởng tượng xem, với mười lăm ngày bạn học được gì?
Chúng tôi khi đó đang tập ngắm chụm. Thằng Ánh còn chưa biết cách cẩm súng.
Lệnh khẩn trương vào Quảng Trị bổ sung quần. Chiểu ngày 12 tháng 4 năm 1972 chúng tôi lên đường.
Năm giờ chiểu chúng tôi được lệnh tối nay qua sông Thạch Hãn.
Thủ trưởng rút súng ra.
Tổ ba người chúng tôi gồm có tôi, Lượng và Anh.
Thổi phóng túi phao bơi cho ba lô và quân tư trang vào buộc chặt. Bám lấy phao bơi. Bám lấy đồng đội.
Ra tới giữa dòng. Nước lớn. Bèo tầy từng đám dày. Sông thì rộng. Bên kia sông pháo và súng đại liên dội tới. Tôi chấp chới. Vẫy vùng. Tiếng kêu cứu thất thanh của Lượng. Những cái đầu nhấp nhô. Tôi sang được bờ bên kia. Xác Lượng trôi về Cửa Việt.
Tám mươi mốt ngày đêm Quảng Trị. Lúc đó tôi nghĩ gì? Tôi mong làm sao đứt tay què chân để được ra. Ra sớm ngày nào đỡ ngày đó. Ở đây trước sau gì cũng chết.
ơi cha ơi là mẹ ơi. ơi đổng đội ơi cứu tôi với.
Tiếng kêu thảm thương cuối cùng vang trên dòng sông. Tiếng kêu rển rĩ của đồng chí thương binh không có người băng bó.
Máu đóng cục. Máu khô đen hàm răng. Anh đang khát. Chúng tôi đang chạy. Dừng lại. Y tá tiêm cho anh ta một phát trợ sức gì đó tôi không rõ. Tôi cho anh ta một nắp bi đông nước. Một nắp thôi. Nếu ba nắp anh ta sẽ chết. Trên trời pháo sáng. Bên kia đạn thẳng bắn sang. Bên này pháo chơm. Pháo nổ trên mặt đất. Pháo trên không trung. Pháo khoan xuống đất. Phản lực. Trực thăng. Bom. Chúng tôi tiếp tục chạy về phía trước. Người bị thương sau đó ra sao không biết.
Năm khẩu pháo kéo lên đỉnh Bạch Mã. Không bắn ngoài Quảng Trị nữa. Từ trong này chúng tôi bắn ra. Địch phát hiện rút quần vào. 12 ly 7 bắn không lại, chúng tôi dùng pháo 37 phòng không hạ nòng xuống bắn bộ binh. Các ông cộng sản có loại súng gì mà dữ vậy. Một tù binh sau đó hỏi.
Vịnh là một trong số những cô gái đào đường cho chúng tôi kéo pháo lên đỉnh. Hai đứa phải lòng nhau mà không ai nói. Chiến tranh vẫn tiếp diễn. Vịnh ra tuyến sau tôi tiến vể phía trước. Hai đứa không còn dịp gặp nhau. Sau này vể quê đứa nào cũng đã có gia đình. Chuyện chiến trường như mới xảy ra mỗi khi nghĩ đến mà Vịnh giờ đã thành bà lão tai biến nằm một chỗ ở làng bên.
Năm năm chiến trường chẳng biết ngắn hay dài. Trời mưa ngổi uống chén rượu ăn củ lạc là tôi lại nghĩ. Nghĩ hết thằng nọ tới thằng kia. Nghĩ thằng đã chết nghĩ thằng đang sống. Dũng nhờ được đi học trở thành người duy nhất sống sót của đại đội. Oanh tai bị điếc đặc vì bắn B40 quá số quy định. Quy định một ngày bắn không được nhiểu hơn sáu quả B40 Oanh bắn mười hai quả. Thực tế diễn ra buộc Oanh phải bắn.
Bữa cơm tối nhưng ăn từ bốn giờ chiều. Ăn xong còn đói hơn cả trước khi ăn. Thủ trưởng đồng ý tối vê' anh nuôi nấu thêm cơm. Chờ đến tối chẳng thấy gì. Đêm cồn cào ruột gan rủ nhau đi lục tìm đồ ăn. Thấy trong bếp đại đội đang hầm hai nồi thịt trâu. Một con trâu của dân trúng bom chết. Mỗi thằng lấy một cục thịt hầm ra gốc cây ngồi. Ãn xong về mắc võng nằm trên cửa hầm. Kỳ nằm ngoài tôi nằm ở giữa. Mảnh bom sát thương cắt ngang cổ Kỳ. Đầu hắn văng vào mạ hẩm ngay trước mặt tôi.
Tôi gác chốt ở Đông Hà cách nhà Đô năm cây số. Một lẩn ghé qua thăm nhà đồng đội. Hai ông bà già ốm yếu chần đi không vững phải lết trên nền nhà. Ngôi nhà liêu xiêu như túp lều có cơn gió mạnh là tốc mái. Vinh là vỢ Đô ở cơ quan không vể.
Mẹ nói với tôi, con vào bảo Đô vể giải quyết việc gia đình đi chứ vợ chồng gì mà lạ lùng vậy. Cưới nhau xong Đô vào Quảng Trị còn Vinh đi làm ở nông trường. Vinh sinh đứa con với người khác. Đô biết nhưng lặng im. Vinh vẫn vào đơn vị thăm chồng. Buổi chiểu mang xô đi tưới rau thảnh thơi. Đô lặng im vì không muốn mất người vỢ xinh đẹp bao nhiêu năm anh đã dành tình yêu sầu nặng.
Trận Xuân Lộc hai năm sau đó. Thiếu cán bộ đại đội. Anh và Đô được bổ sung sang đơn vị trực thuộc chiến đấu. Đô hy sinh khi vừa được lên sao ba ngày. Mổm nó đầy máu và người thì mểm nhũn. Anh là người chôn cất nó, kể lại hình hài Đô khi đó cho tôi nghe.
Tháng 5 năm 1975 đơn vị về nghỉ ngơi ở Long Thành mười lăm ngày. Chúng tôi nhận được một lá thư gửi cho Đồ. Tòa án nhân dân Vĩnh Linh báo tin cho anh TVĐÔ về giải quyết việc ly hôn với nguyên đơn là chị TM.Vinh. Anh cầm tờ giấy khóc thương bạn.
Sáu mươi tuổi lẩn đầu tiên ra Hà Nội. Tìm được điện thoại gọi ngay cho Chung hỏi địa chỉ nhà đến chơi. Chung nói đang có việc bận. Chung là sếp lớn một công ty, tôi là người nông dần cày ruộng. Chuyện chín đứa hút chung điếu thuốc rê, chia nhau mẩu lương khô gác lại ven rừng.

沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。