顯示具有 不要提我的名字 標籤的文章。 顯示所有文章
顯示具有 不要提我的名字 標籤的文章。 顯示所有文章

書評:不要提我的名字




《請別說出我的名字》(Đừng kể tên tôi)


文化

《請別說出我的名字》與戰爭的哀愁
2024年4月21日 10:27
(來源:vhds.baothanhhoa.vn)

「我生於1979年,從小就看著叔叔伯伯、爺爺奶奶整天在田裡勞作。他們彼此談論的話題全是農事。就在我家花園旁,曾是一個大型彈藥庫。一枚磁性炸彈曾掉落在鄰居**Nhin奶奶(bà Nhin)**家中,當場炸死四人。」

「我父母那個年代,兒時夢中總是浮現飛機低空投彈的畫面,炸彈落在田野、村路和梯田上。夜裡下田幹活得偽裝到腰部,頭上也要偽裝。今天提到哪個事件、說到誰家、談起村中誰的往事⋯⋯我就像個外人,來到這裡探尋⋯⋯」這是**潘翠霞(Phan Thúy Hà)**的自述——她生於戰後,是《請別說出我的名字》(Đừng kể tên tôi)這本書的作者。

《請別說出我的名字》是一些關於戰爭的故事,同時也是一項要求、一個前提:人物願意講述自己的軍旅人生,但條件是不具名。因為他們比誰都清楚,還有太多戰友不在人世。「請別說出我的名字,因為與十八、二十歲就陣亡的戰友相比,我能活到今天,還有兒孫,已是天大的幸運了。」這就是戰爭的哀愁與傷痛。「他們不說的話,就只是千千萬萬個普通人。但一旦開口,真相就如山壓頂,痛苦難當。」——Thái Kế Toại如是說。因此,在講述一切之後,他們又願意署名並留下地址。他們的目的並非提醒,而是想承擔身為親歷者的責任,述說戰爭的真實面貌。

書中的「我」是21個人,交織出超過21段回憶。
「那時的我」是天真且懷抱理想的少年與少女;
「現在的我」則在回憶那些戰爭的陰影與曾被埋藏的悲傷。

為了能入伍,有人謊報年齡:「我穿著輪胎做的拖鞋,對量體重的衛生員說:『算我的鞋一起吧。』走路時撿兩塊石頭塞進褲袋。」這就是那些渴望上戰場的青少年們的小伎倆。
更重要的是他們的戰鬥精神:「先去訓練熟悉一下,再過幾年就能直接參戰⋯⋯」
可是在戰場上,「人可以躲炸彈嗎?不行,只能希望炸彈繞過人。看到太陽升起就知道自己今天還活著。」
這看似樂觀的理由,實際上是那個年代青年對和平的渴望。

戰爭的殘酷遠超想像。譬如那位戰士阮文政(Nguyễn Văn Tranh),擔任營副,左臂被炮彈碎片削斷,只剩一塊皮和幾條筋連著。他的聯絡兵正在替他包紮時,他卻命令營聯絡兵Kiều Duy Tý立刻把那條垂掛的手砍斷,以利處理。

還有人「清晰地聽見自己的血在背後‘滋滋’流淌。剛穿上的衣服還沒被汗浸濕,血就沒滲進布裡,而是順著背部流下,聚成一團卡在腰間一側」。

然而,比炸彈更殘酷的是,有人死於飢餓、瘧疾,甚至猛獸之口。

即使如此,
當死亡逼近,士兵們最深的夢想竟然只是回家與母親和妹妹吃一頓飯,能再呼吸一次故鄉的空氣。
但這個簡單的夢想對許多人來說,卻是無法實現的,因為他們還未回家,就已為國捐軀。

每場戰鬥的殘酷相似,但戰後的創傷卻因人而異。
有些人幸運地活著回來。
「撿回一命了。我們就像淘米剩下的米,來回篩選還留在簸箕裡。該慶祝。今天還能這樣坐在一起,真該開心。」
但還有更多人,一生被痛苦與疾病纏身,甚至影響到下一代。

讀到《美軍防空洞,現在是我逃避丈夫發病的地方》這一章,有誰能不動容?
一名十四歲的小戰士,曾被剝奪擊落美機與俘虜美國飛行員的功勞。
後來他入伍,在1968年春節初二夜戰中被彈片擊中太陽穴,導致後遺症。
和平之後,他時常發病,高喊「衝鋒」奔跑,看到家人就揍,有時甚至放火燒自家。

更悲慘的是,他的兒子也患了同樣的病;兒媳成了另一個「母親」,承受相同的苦。而當年的防空洞,如今成了她們母子每逢他發病時的避難所。

有人在殘破不堪中歸來,妻子三次懷孕流產。「第四次生下沒嘴的孩子,只活了一天就離開,像是為了減輕父母的痛苦。第五次生的孩子,少了一根手指、一根腳趾——這隻手曾撿回多少戰友遺體。」

戰爭就是這樣,損失巨大,痛苦無比,後果無窮。
也沒有什麼「打仗的職業」,因為「那個年代的年輕人,幾乎都跟你們一樣。
如果我在你那個年代、住在你那個村,我也一樣會去當兵。」
但當國家需要時,他們仍會挺身而出。「伯伯,若戰爭再來,您會讓孩子上戰場嗎?
——會的。
——可您經歷過那麼多苦,重病住院,每月只靠160萬越盾的病殘津貼過活
——沒辦法。敵人來了就得打。不打就亡國。保衛祖國,無論何時都是一種榮譽。」

最動人的是,即使經歷過無數血淚,**胡伯伯(Chú Ngọc)這些「胡志明部隊的士兵(Bộ đội Cụ Hồ)」仍保有慈悲心,甚至稱對方為「對手」(đối phương)而非「敵人」。正如他在《淵水之人(Người bên sông Ngàn Sâu)》一章中說:「現在如果能見到那兩個在同杜戰役(trận Đồng Dù)**中救過我的敵兵,我一定立刻坐車去拜訪他們。」

我讀這本三百多頁的書,不知流了多少次淚,也多次不得不停下來。因為戰爭雖然過去快五十年,創傷仍在,那些故事仍刻印在他們、他們的孩子身體與心靈中。這些痛苦的故事同時也令人驕傲,他們讓我們這一代人不僅佩服,更心懷感恩。

作者**潘翠霞(Phan Thúy Hà)坦言:「我原本不知道該怎麼寫,直到遇見每一位人物。是他們創造了語調與情節。他們帶著我走,每一次見面,我都很緊張,不知道今天會聽到什麼故事。我完全無法預想。」那種「無法預想」的感覺確實存在。我們這一代出生於戰後,不聞硝煙,不知生死交界,但透過那些質樸的故事——「如機器般記錄,真實到底,不加也不減,不美化也不醜化,粗糙得像現實本身」——正如陳輝光(Trần Huy Quang)**所說,我們多少理解了他們的犧牲。

因為,誰能想像出如此殘酷?戰爭的赤裸與真實從來不是玩笑。更重要的是,作者想傳遞給當事人與讀者的訊息是:「沒有人、沒有什麼,會被遺忘。」

文/Kiều Huyền(翹玄)


如需整理為可投稿格式、摘要、或加註史料,可再告訴我。


Văn hóa

“Đừng kể tên tôi” và những nỗi buồn chiến tranh

10:27 21/04/2024

(vhds.baothanhhoa.vn) - “Tôi sinh năm 1979, lớn lên đã nhìn thấy các chú, các bác và ông bà mình sớm trưa chiều tối trên cánh đồng. Câu chuyện họ nói với nhau là mùa vụ. Sát khu vườn nhà tôi đang ở từng là một kho đạn lớn. Một quả bom từ trường đã rơi xuống giữa nhà bà Nhin ở bên cạnh kho đạn, giết chết 4 người


Trong giấc ngủ em thơ thời cha mẹ tôi là chập chờn hình ảnh máy bay thả bom rơi là là trên cánh đồng, trên đường làng, trên nương bãi. Đi làm đồng ban đêm ngụy trang ngang thắt lưng, ngụy trang trên đầu. Hôm nay kể tới sự kiện nào, nói tới ngôi nhà ai, nhắc chuyện quá khứ một người làng...; tôi như người từ nơi xa đến tìm hiểu...”. Đó là một tự sự của chính tác giả Phan Thúy Hà, một người sinh ra sau chiến tranh và là tác giả của cuốn sách “Đừng kể tên tôi”.


“Đừng kể tên tôi” là những câu chuyện chiến tranh, đồng thời cũng là yêu cầu, là điều kiện để các nhân vật kể về đời lính của mình. Vì hơn ai hết họ biết đồng đội của họ còn rất nhiều và không ít trong số đó đã ra đi. “Xin đừng kể tên tôi, vì so với đồng đội mười tám, hai mươi, mình được sống đến hôm nay, có con cháu vậy là may mắn rồi”. Nỗi buồn chiến tranh là vậy, nỗi đau chiến tranh cũng là vậy. "Họ không kể ra thì họ chỉ là muôn vàn người bình thường. Nhưng họ đã kể thì sự thật bỗng nặng trĩu, quằn quại, đau đớn" (Thái Kế Toại). Vì thế, sau khi kể ra tất cả, họ lại đồng ý để tên của mình và địa chỉ rõ ràng. Không phải với mục đích nhắc nhớ mà họ muốn gánh lấy trách nhiệm của người trong cuộc, kể về sự thật bộ mặt chiến tranh.


“Tôi” trong cuốn sách này là 21 người với hơn 21 câu chuyện, những dòng hồi ức đan xen nhau. “Tôi” của ngày ấy là những chàng trai, cô gái còn hồn nhiên và nhiều lý tưởng. Tôi của ngày hôm nay kể lại “những góc khuất của chiến tranh và cả những chuyện đau lòng còn giấu kín”.


Để được vào bộ đội, họ phải khai sinh tăng tuổi, “tôi đi dép lốp, nói với anh y tá cân đo rằng cứ tính cho em cả dép. Trên đường đi nhặt hai cục đá cho vào hai túi quần”. Cái “mưu mẹo của những đứa trẻ mới lớn khao khát ra trận” là thế. Nhưng hơn hết là tinh thần chiến đấu “cứ đi tập luyện cho quen. Vài năm nữa cứng cáp chiến đấu trực tiếp là vừa...”. Đi chiến trận "bom tránh người chứ người sao tránh được bom. Tắt mặt trời biết là hôm nay mình còn sống", mà vẫn cần phải làm quen? Cái lý do đó có vẻ lạc quan tếu, nhưng lại là tâm trạng chung của những thanh niên khát khao hòa bình.


Chiến tranh khắc nghiệt và ngoài sức tưởng tượng của con người. Đó là câu chuyện viết về người lính Nguyễn Văn Tranh, tiểu đoàn phó đã bị một mảnh pháo cắt đôi ống tay trái. “Cánh tay dính vào cơ thể chỉ bằng một mảnh da và cụm gân. Trong lúc đó, tổ liên lạc đang cố gắng băng bó cho anh thì anh ra lệnh cho liên lạc tiểu đoàn là anh Kiều Duy Tý chặt đứt ngay phần lủng lẳng băng bó cho tiện”.


Thậm chí có người “nghe rõ tiếng máu mình đang chảy re re sau lưng. Áo mới mặc chưa thấm mồ hôi lần nào, máu chưa ngấm được vào sợi vải nên trôi theo lưng đọng thành cục nằm giữa và một bên thắt lưng”.


Song, điều nghiệt ngã nơi chiến trường không chỉ có những cái chết vì bom đạn mà họ chết vì đói, vì bệnh sốt rét và cả những con thú ăn thịt.


Dẫu thế nào thì trong những giây phút cận kề của cái chết, đối diện với những hiểm nguy ấy, người lính lại chỉ mơ đến những giấc mơ vô cùng bình dị. Đó là được về nhà ăn với mẹ và em gái một bữa cơm, được về lại hít thở không khí thân thuộc của quê nhà... Nhưng, giấc mơ giản dị ấy lại không dễ dàng để thực hiện, bởi có những người lính chưa kịp về thì đã hy sinh thân mình cho Tổ quốc.


Đi qua chiến tranh, trong mỗi câu chuyện của các nhân vật, mỗi trận đánh có thể giống nhau về tính chất, về sự khốc liệt, nhưng vết thương sau chiến tranh gim lại trong mỗi người, di chứng để lại là hoàn toàn khác nhau.


Có người may mắn sống sót trở về. “Thoát chết" rồi. Bọn mình là gạo ở trên sàng. Quần đi quần lại vẫn trên sàng. Phải ăn mừng. Mừng hôm nay được ngồi với nhau lành lặn thế này. Nhưng còn có biết bao người mang nỗi đau, bệnh tật... đeo đẳng không chỉ với cuộc đời họ mà còn tồn tại ở thế hệ con, cháu.


Đọc câu chuyện “Hầm tránh bom Mỹ. Và giờ hầm là nơi tôi trốn chạy khi chồng lên cơn” có ai mà không xúc động. Đó là chuyện về một người lính, mười bốn tuổi bị cướp công bắn rớt máy bay và bắt được phi công Mỹ. Sau đó thì đi bộ đội. Trong trận đánh đêm mùng 2 Tết Mậu Thân 1968, anh bị một mảnh đạn ghim sâu vào thái dương, khiến ảnh hưởng đến thần kinh sau này. Hòa bình rồi, thỉnh thoảng anh lại lên cơn, cứ hô xung phong rồi chạy, thấy vợ con là đánh, có khi đốt luôn cả nhà mình.


Trớ trêu, người con trai của hai vợ chồng cũng mắc bệnh như anh. Đứa con dâu lại gánh nỗi cay cực như người mẹ. Và, căn hầm ngày xưa tránh bom Mỹ giờ là nơi hai người đàn bà ôm con ẩn nấp mỗi khi chồng họ lên cơn.


Có người thì thân tàn ma dại trở về, vợ ba lần có thai rồi sảy. “Lần thứ tư sinh đứa con không có miệng. Nó chào cuộc đời một ngày tuổi rồi đi cho cha mẹ đỡ dằn vặt. Lần sinh thứ năm là đứa con thiếu một ngón tay thiếu một ngón chân (bàn tay này đã thu nhặt bao nhiêu xác lính).


Chiến tranh là vậy, mất mát nhiều, đau đớn lắm, hậu quả khôn cùng. Cũng không có nghề đánh giặc bởi “Thanh niên lớn lên trong thời đại đó hầu hết ai cũng như các ông. Nếu cháu sinh ra ở thời của ông, sống ở làng quê ông thì cháu cũng vậy thôi”. Nhưng khi đất nước cần, họ vẫn sẽ lên đường. “Bác, nếu chiến tranh lại xảy ra bác có cho các con mình ra trận không? - Có chứ. - Nhưng bác đã trải qua những năm tháng như vậy. Nằm viện triền miên vì những bệnh nặng. Mỗi tháng chỉ dựa vào một triệu sáu tiền bệnh binh” - Phải chấp nhận. Giặc đến là đánh. Không đánh để mất nước à. Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thì thời đại nào cũng vinh dự”.


Cái quan trọng là sau bao nhiêu đau đớn và nước mắt, song, những người lính Cụ Hồ vẫn nhân ái khi nghĩ về “đối phương”. Tôi thích cách dùng chữ “đối phương” mà không phải là “kẻ thù” của Phan Thúy Hà. Đó cũng chính là tâm sự của chú Ngọc (nhân vật trong câu chuyện Người bên sông Ngàn Sâu: “Giờ mà có cách gì gặp được hai thằng lính dìu mình trong trận Đồng Dù thì quý biết bao. Sẽ lên tàu xe đi thăm nhau ngay”.


Tôi đọc cuốn sách hơn 300 trang với không biết bao nhiêu lần nước mắt rơi, và không ít lần phải gấp trang sách lại. Bởi chiến tranh đã lùi xa gần 50 năm nay nhưng vết thương thì vẫn ở đó, những câu chuyện còn in hằn trong trí não, trên da thịt của họ, của con họ... đau đớn mà cũng đầy tự hào, những con người ấy đã khiến thế hệ chúng tôi không chỉ ngưỡng mộ mà thực sự biết ơn.


Tác giả Phan Thúy Hà đã bộc bạch: “Tôi chưa biết sẽ viết như thế nào cho đến khi gặp nhân vật. Nhân vật tạo ra giọng điệu, tạo ra cốt truyện. Nhân vật dẫn dắt tôi đúng theo nghĩa đen. Mỗi khi đi gặp nhân vật tôi khá hồi hộp, không biết hôm nay mình được nghe chuyện gì. Tôi hoàn toàn không hình dung ra được”. Cái cảm giác “không thể hình dung được” là có thật. Chúng tôi sinh ra ở thời hậu chiến, không còn nghe mùi thuốc súng, không biết được lằn ranh sống - chết... nhưng qua những câu chuyện mộc mạc, được “ghi chép, ghi như một cái máy, trung thực đến tận cùng, không thêm bớt, không hư cấu, không đỏ hơn mà cũng không đen hơn, sù sì như sự thật, như cuộc đời” (Trần Huy Quang) chúng tôi hiểu phần nào sự hy sinhh của họ.


Bởi ai có thể hư cấu đến độ khốc liệt như vậy? Sự thật trần trụi của chiến tranh và con người ở trong giai đoạn ấy “đâu phải chuyện đùa”. Hơn hết, điều tác giả muốn gửi đến những người trong cuộc, đến độc giả là thông điệp: “Không ai, không điều gì bị lãng quên”.


Kiều Huyền

深溪河畔的(全)01-24

**深溪河畔的人**



1.掉下糞坑的美國敵人



我正在十五號公路邊放牛,忽然看見一連串的飛機開始行動。

一顆炸彈落下,兩顆……三、四、五顆炸彈相繼落下。

我們這些孩子早已習慣每天炸彈轟鳴的畫面。我們玩著數飛機的遊戲:數飛機,也數炸彈。每個孩子都能分辨各種飛機、炸彈的型號,以及它們投彈前後的飛行方式。

那五架飛機的目標是石老橋。這座橋位於十五號公路上,炸斷它就能阻斷交通,讓人與車都無法南進。

第一架飛機投下炸彈。第二、第三架立刻遭到我方高射炮猛烈還擊。第四架向下游方向逃竄。

第五架轉了一圈,飛行員彈射跳傘。飛機自由墜落,墜入竹亞森林。伴隨著震耳巨響,一柱火焰直衝天際。降落傘在空中飄蕩。

縣武裝部動員一個排,聯合農場和各鄉的民兵,圍住森林搜捕飛行員。敵軍的空軍力量趕來救援。他們投下集束炸彈、發射火箭,不讓我軍靠近。

這是一場地面與空中的拉鋸戰,持續了整整兩天兩夜。飛行員終被俘獲,民兵將其押往一戶村民家中。

鄉鄉村村的人潮湧動,蜂擁而至,只為一睹美國飛行員的樣貌。我也擠進人群,找到一個靠近的位子。

那飛行員比我想像中還要高大。皮膚白,藍眼睛,手腳滿是毛髮。他沒有穿軍裝,制服與軍靴早被剝掉。

他坐在一張木板床上,幾乎占滿了整個床面。

他比劃著說口渴了,民兵遞水給他喝。

他又比劃說要上廁所,民兵帶他到後院,指著前方那是茅坑。

那時我們村的廁所是較為先進的雙坑式,用黏土鋪底,上方蓋著幾塊輕質木板。

飛行員在廁所門口猶豫許久,頭伸進去了,但身體進不去。折騰了好一會兒,最後還是由一名女民兵協助,他才勉強擠了進去。

民兵們在遠處持槍戒備。村民們則在外頭圍了一圈又一圈地等候。怎麼這麼久?上廁所怎麼這麼久?

兩名女民兵靠近查看,發現飛行員卡在糞坑裡。那幾塊木板支撐不住他百公斤的體重,垮了。他整個人掉了下去,渾身都是糞便。兩位女民兵將他扶到井邊,叫他坐下。

我站在那裡,張大嘴巴,看著這名曾駕駛飛機轟炸我們村莊的美國侵略者,正被女民兵一勺勺地澆水清洗。原來那樣的「美國敵人」,竟然是這副模樣。

2.童伴燒死



我和雄一起去放牛。他的左臂天生畸形,所有的力量都集中在右臂上,因此他的右臂比常人還要強壯。

夏日午後,我們兩人一起砍樹枝作偽裝材料,扛到部隊的炮陣地去。路上若遇到飛機俯衝投彈,就互相提醒趴下不動,等聽見飛機聲遠去才爬起來。到了陣地,看到叔叔們正在對空射擊,我們就躲進地洞等待。等的理由是每人可以分到一個空彈殼做為獎勵。

那些空彈殼是閃閃發亮的黃銅製成。我知道銅是很貴重的金屬,家裡的銅托盤只有貴客來訪時母親才會拿出來用。

每週,村裡都會舉行一次宣傳活動。那時我們就把空彈殼拿出來用。我們這群孩子一手高舉寫有口號的標語:「美帝滾出越南南方!」一手吹著空彈殼,氣氛熱鬧非凡。

我總共收集了三十五個空彈殼。雄跟我商量說等戰爭結束,我們要一起開一家鑄銅作坊。這些彈殼可以拿來賣錢。我們把所有收集到的銅都藏在地窖裡。我家有五個地窖,現在我已記不得把那些彈殼藏在哪一個了。

那天,我牽著牛去吃青草。沒想到對面田那頭,雄也正趕著牛下田。

田裡有幾個人帶著鋤頭在挖鋁和鐵。炸彈轟炸過後,人們去挖未爆彈、地雷和子彈,帶回家或請工匠敲打成家用品。

雄放好牛後,向附近一位挖鋁的人借了鋤頭。他一揮鋤頭,正好擊中了一枚尚未爆炸的凝固汽油彈。

一聲驚天巨響,黑煙四起。我望過去,只見雄像一根燃燒的火炬,在那邊熊熊燃燒。

我之所以認出他,是因為他那條熟悉的萎縮手臂。

「雄啊,快趴下!」我大喊。

但雄可能已經聽不見了。我立刻衝過去。

我把他拉進一個剛炸出的彈坑裡,壓他在地上,不停地用土覆蓋,撲滅火焰。

火熄了。我把他背到背上開始跑。

跑了十多公尺,他突然用手拉我的肩膀,像是要我停下來。他的臉皮和腹部皮膚已經黏在了我的衣服上,他痛得受不了這麼貼身的姿勢。

我把他放下,牽著他的手一起跑回村裡。男人們都上戰場、到鄉或縣的戰備崗哨去了,村子裡只剩下老弱婦孺。

人們叫我去砍香蕉葉鋪在地上讓雄躺下。我扶他躺好,又按照指示去找爛掉的香蕉根蓋在他身上,讓他涼快一點。

我母親和雄的母親當時正在田裡插秧,聽到消息後跑回來,剛好趕上。他們把雄送去醫院。

縣醫院原本就在附近,但已被炸毀,現在已撤離到七公里外的香龍鄉。我不能跟去。母親聽人說,火苗已深深地滲入了骨頭裡。

醫院沒有藥可以撲滅體內深處的火焰。一天一夜後,雄死了。

那時,我們還只是四年級的小學生。

3.炸彈也不分晝夜





挖防空洞。一年級就得挖防空洞。在家挖,在學校也挖。每年都在挖。舊的防空洞塌了,就再挖新的。一年級開始挖,到了七年級還在挖。

老師分配每個學生必須挖幾公尺的洞。體弱的妹妹要靠哥哥來幫忙完成挖洞的任務。

我父親在1964年去世。死於胃病。那幾年間,很多人都有這種病。因為飢餓,因為辛苦,因為沒藥醫。哥哥參軍去了廣平。姐姐唸七年級,妹妹唸四年級。我十歲,就成了家中最堅強的人。

防空洞還在繼續挖。但人還是一直在死。我累了。我真的厭煩透了。我不想再挖洞了。我心裡充滿鬱悶卻說不出口。

我坐在牛背上,看著從Địa Lợi 地利那邊起飛的飛機準備投彈,就知道炸彈會落在我們村裡。又會有人死了,不知道這次是誰家。

@@Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa – là thành ngữ dùng để chỉ ba yếu tố cần thiết giúp tạo nên sự thành công cho một sự kiện, một công việc, hay một điều gì đó mà con người mong muốn đạt được.
@@天時、地利、人和——是一個成語,指的是人們想要實現的一件事、一項工作或某件事成功的三個必要因素。   

我把牛趕回家,然後跑去同班同學家。炸彈正好擊中了他們家。軍人正在翻土找人。一顆禿頭冒了出來,是他父親的頭。人們趕緊拿個竹籃蓋住頭部,避免鬆土再把他埋住。繼續翻、繼續扒,把他拖出來時,身體已經軟塌塌、整片瘀青,像一根熟透的香蕉。洞裡還有三具屍體——一個孫子,和兩位鄰居。

那位死者的兩個兒子正在前線打仗。他們不知道家裡發生了什麼事。

炸彈聲停了。大家回自己家去看看還剩下什麼。

一戶人家的屋子全倒了。好幾個小時後,母親和年幼的孩子才從瓦礫堆中爬出來。兩位姐姐中午出去玩,不在村裡,差點也被炸中。他們這一家算是幸運的。

大人們彼此說道,炸彈會躲人,人卻躲不了炸彈。只要太陽還升起,今天就算是活著。一頭牛被炸死了,大家把牠剖開來分肉。即使日子這麼艱難,也沒人真正想吃。吃來幹嘛,明天我們也會變成那樣。

**「明天我們也會變成那樣。」**
度過極度悲觀的時刻後,人們又彼此笑了起來。等夜幕降臨後,一起到田裡偷拔玉米。在黑暗中,留在地裡的玉米比帶回家的還多。

生活在夜裡反而熱鬧起來。但炸彈也不分晝夜了。人們照樣跑到田裡,管它炸不炸。

這樣的生活什麼時候才會結束?我越來越焦躁不安。什麼時候上課不用再躲在地洞裡?什麼時候天上不再有轟鳴盤旋的飛機?什麼時候不再有那聲「嗡嗡」的炸彈預告?

這一切真的能結束嗎?戰爭真的會結束嗎?

雄的事情發生後,我被選去參加香龍鄉的「雙優會議」。什麼是「雙優」我也不清楚。老師寫了一張稿子,讓我帶去在會議上念。到了那裡,我遇到隔壁鄉的一位女孩,叫阮氏卯。她是剛剛在香福中學五年A班那場轟炸中倖存的學生。

---

> **註解**:
> 1966年2月9日下午4點半,美國空軍F4戰機群對民區投下58顆炸彈。共有6顆炸在香福中學,其中2顆擊中五年A班,造成33人死亡。

4.佩戴紅領巾的少先隊員



我在各地的流動電影院看了《阮文追》這部電影十三次。

那時我還是個穿著短褲、打著赤膊的小男孩,哪裡有放映電影,我就跑到哪裡。每一次觀影我都非常感動。我清楚地記得每一個場景、每一句台詞。一直到現在,只要一提到電影,我腦中浮現的還是《阮文追》裡的那些畫面。

我把阮文追說的每一句話都背得滾瓜爛熟:「我反對美帝國主義入侵越南南方,給我的同胞帶來無盡的苦難與死亡。」
「真正的罪人是美國帝國主義。我遺憾自己太早落入敵人之手,無法繼續戰鬥,無法完成解放民族、解放階級的理想,那是我一生的信念。」

夜裡,我夢見阮文追站在槍口前,仍然挺直身軀,說出正義的話語。沒有什麼影像比這更美。沒有什麼場景比這更能撼動我心。他就是今天愛國越南人的化身。若能像阮文追那樣死去,我將何其幸福。我懷著這樣的夢想入眠,在十五號公路那頭的炸彈聲中酣睡。

每週,鄉幹部都會到各村的小學生隊伍中巡訪,與我們交談,並選出表現突出的學生。有位叔叔給我一個任務:擔任「少年合作社」的社長。
「少年合作社社長」的職責,就是領導所有15歲以下、佩戴紅領巾的少先隊員。

夏天,每週有兩晚我要去參加政治學習活動。漸漸地,我開始明白:為什麼我們家鄉遭到那麼多炸彈襲擊?為什麼美國犯下那麼多罪行?
因為美國佔領南方,並將進一步攻擊北方。越南即將被美國吞併,美國將統治我們的國家。整個越南人民將陷入黑暗長夜之中。

(\*補充段落末尾破碎句的內容:)
那次轟炸中,有24位學生和老師 Thái Văn Nhậm 當場受傷,學校建築被炸毀。

5.缺糧、飢餓,是每家每戶的日常,但共同的責任不能少。



兩個碗倒扣在一起。放學回家看到兩個碗倒扣在一起,就知道今天每個人可以吃兩碗飯。所謂兩碗飯,其實是兩份地瓜、一份米飯。媽媽煮熟後把飯舀進碗裡,自己則用鍋邊剩下的飯湊合著吃完,就去田裡幹活了。

如果沒有看到兩個碗扣在一起,那就是和平常一樣的一頓飯。媽媽會叫我們進廚房,每人拿一個碗,到鍋邊舀一點地瓜葉湯。

飢餓並不是讓人痛苦的事。那時大家心裡都只想著和平。只要和平能快點到來,就算一輩子吃地瓜葉和馬齒莧也甘願。

我家有一間兩側的屋子是專門用來儲存給部隊的糧食的。米一袋又一袋堆成山。院子裡是武器庫。我們母子幾人只能擠在屋角。住得擠一點沒關係,要把床位讓給解放軍叔叔休息,讓他們有力氣打仗。

有位解放軍叔叔看到我們一家只喝地瓜葉湯,心裡覺得不忍心。他小聲對媽媽說,可以偷偷拿一點點米。媽媽堅決拒絕。她說就算餓死,也不能動軍隊的口糧。

這裡的百姓全都這樣。軍隊的糧食、用品堆滿每家每戶、每個院落,大家都自覺守護。就算是軍人主動給,也沒人敢收。

有一次,一位軍人看見媽媽廚房裡什麼都沒有,離開前故意「忘記」帶走一口鍋。媽媽還沒發現,鄰居已經通報了。媽媽因此被批評,那口鍋也被送到鄉公所,等下一個部隊來接收使用。

缺糧、飢餓,是每家每戶的日常,但共同的責任不能少。每個超過18歲的公民,每年都要為國防上繳10公斤活豬肉。在這種整天要躲炸彈的日子裡,哪裡還能養豬?養不出豬的,就得折算成60公斤稻穀。

百姓有義務支援軍隊,但不能染指軍隊一針一線。就連偷一粒鹽,也是「越奸」(越南的漢奸)。戰爭結束後,有十輛鳳凰牌腳踏車被遺忘在某戶人家的屋簷下。即使這家人一輛腳踏車都沒有,也不敢動。村裡召開會議,決定要儘快找到原來的部隊,請他們來領走。


6.偽造年齡參軍,離別宴只有香蕉湯



我不知道自己出生哪一年。老師問媽媽,媽媽說不記得。老師就在文件上寫我出生於1957年。

「你生於五七的話才十三歲,誰准你去當兵?」
村裡的幾位叔叔對我大聲呵斥。

我重寫了志願入伍申請書,改成1951年出生,然後交給鄉武裝部隊長官。姐姐在鄉上看到我的申請書,回家問我:「你是弟弟,怎麼會比我還早出生?」

我被通知去體檢。我知道我的體檢結果是 B2-,也就是不合格。

我穿著輪胎拖鞋,對負責量測的衛生員說:「連鞋子一起算進去吧。」我在路上撿了兩塊石頭,塞進褲子口袋——這是那些渴望上戰場的孩子的小伎倆。

就這樣,我的體重差不多有44.5公斤,身高1.6公尺,勉強通過第一輪體檢。

等到入伍通知來的時候,媽媽才知道我偷偷寫了志願書。
「孩子啊,妳爸已經去世,你哥七年沒回家了,現在你也要走,那誰放牛、誰幫我耕田呢?你再留幾年,等讀完書再去,媽媽不反對。」

那時我還在讀七年級。我比同齡的孩子讀得晚。

整個初中部,只有我一個人申請入伍。

初中生還沒達到必須上戰場的年齡。

三位鄉幹部來到我家。他們說:「你不能去。你這樣做是錯誤的思想。鄉裡還有符合標準的成年人可以去當兵。你這樣會讓上級批評我們。」

我說:「各位叔叔你們誤會了。你們讀書多、懂得多,有很多資料和報紙,那請你們解釋一下『少年軍』是什麼意思?是不是指那些還沒到法定年齡的孩子也可以進軍隊,從事像是通信這類工作?我先去訓練適應一下,再過幾年長大了就能直接參戰了。」

其中一人說:「你都這麼說了,我們也沒辦法了。」

無法阻止我這個兒子的決心,媽媽最後只好答應。

班級為我舉辦了一場送別會。有的同學貢獻芝麻,有的帶來蜂蜜,大家合煮了一鍋芝麻糖。還有其他班級的同學也來參加。那個下午真的很快樂。我成了全班的焦點,甚至成了整個學校的焦點。我在心裡默默發誓,要像阮文楚那樣英勇戰鬥,不辜負大家今天對我的情誼。

同學們送我一本筆記本。45位同學寫下離別的話,有的寫了三頁,有的寫滿五頁。

媽媽到學校,請老師們到家裡吃一頓送別飯。

家裡還剩一擔「三葉稻」米。這種米是特別品種,留著萬一餓極了可以拿來搗碎做米粉。這些米是媽媽存了好幾年的。今天媽媽決定拿出來,讓兒子和老師們吃上一頓好飯。

老師們很早就來了,每個人都得偽裝起來。外頭是轟炸區,晚餐後天空總是被照明彈照得通明。

大家紛紛叮囑我:「你要堅強走下去」、「你要努力奮鬥」、「你要完成任務」、「你是全校的驕傲」。

化學老師河老師抱著我哭,她哭得哽咽說不出話來。她有兩位哥哥在1968年和1969年陣亡。她把一條繡著兩隻鴿子和「永遠不忘」字樣的手帕交給我。

其實,在此之前,老師們都單獨找過我,勸我不要去。河老師什麼也沒說,但她的眼神卻充滿話語。

媽媽端上了飯桌。桌上有兩大碗雞湯,是她宰了家裡的主公雞煮的。還有一鍋煮香蕉花的湯,一鍋三葉米飯。

媽媽一一為大家盛飯。她陪坐在一旁,卻沒有動筷子。我心中一陣激動。這本來是媽媽反對我參軍,但現在她卻為我做了這頓飯,讓我感到快樂。

我端起碗來吃。天啊,這是什麼味道?一股霉味,濃烈刺鼻。我勉強吃了一口飯,苦而焦,苦得根本吞不下去。三葉米怎麼會變成這樣?我忍不住要哭了。

後來我才知道,那天的飯為什麼會那麼苦焦。

第一個原因是稻穀還沒曬乾,媽媽就收起來了。第二是從日頭底下直接把熱稻穀倒入桶中,結果穀子悶熱出汗、發霉。第三,是這些穀子儲存太多年,已經變質了。

媽媽不是一個擅長家務的女人。一歲時外婆就把她賣給一家富有人家當童養媳。媽媽在那家人家長大當傭人,沒學過字,也沒人教導她。還沒成年就嫁了人,然後笨拙地撫養四個孩子。

我看著老師們。沒有人露出異樣。每個人的碗裡飯都還在。校長請媽媽盛一碗不配飯的香蕉湯,班主任也要了一碗。大家都改吃香蕉湯,不碰米飯。

媽媽沒注意。她也不知道。幸好當時她什麼都不知道。

7.正式入伍



生產隊的隊長敲鑼召集村民開會。會議內容是號召每戶人家捐出一至兩毫,作為鼓勵小玉(Ngọc)上前線服役的支援金。整個生產隊最後湊到九塊錢。

青年團支部也開了會,買了一條毛巾送我,並對即將參軍的我表示鼓勵。

那時我只是個隊員。入伍前幾天,鄉裡有幾個人提議讓我入團,但沒通過。理由是:之前參加過「團員培訓」的人,現在必須重新上課才能正式入團,因為新制度要求團員名義上都要掛名為「胡志明青年團團員」。而我已經來不及再去補課了。

第二天一早,母親送我到巷口,碰上了鄉隊長。母親把我交給他後便轉身離去。為什麼母親不再陪我一程?為什麼姐姐和妹妹不像其他家庭那樣來送我?到了接兵訓練部隊所在的富嘉社(Phú Gia),我看到每位徵召者身旁都有家人陪伴,他們低聲細語地聊著天,一直到中午。而我,只有一人。

但我雖然一個人,卻不覺得悲傷。心情反而是緊張的,因為我知道接兵單位還要再做一次體檢,我是否能夠順利入伍還未確定。

鄉隊長從附近一戶民宅走出來,臉色陰沉。他剛剛被縣隊長批評斥責了一頓。原因是:縣裡要求至少動員十二人,結果實到的只有七個。我又開始擔心了。人數不足會不會導致徵召計畫被延期?

中午我們到當地一戶人家歇腳煮飯。家裡什麼食材都沒有,每人湊點錢去買米,蔬菜則是四處去討來的。那是我離家後的第一頓飯,匆匆吃下,味同嚼蠟。

下午三點,接兵單位點名複檢。我順利通過,確定正式入伍了。心裡非常高興,只是身邊沒有人可以一起歡呼。

8.行軍當聯絡員上政治課

行軍。每個人肩上都扛著五片棕櫚葉,要帶去訓練地搭建臨時營地。

香秋、香清——這是我第一次踏入的鄉村。這裡居民說話的腔調讓我聽得很吃力。他們的語調常常不對,發音又拉得很長。

我的腳因為長時間步行而腫了起來。夜裡,一位老婆婆燒了熱水,放了鹽,讓我泡腳止痛,好讓我隔天還能繼續走路。

我個子太小,有人拍拍我肩膀問:「你是送哪個哥哥去當兵?怎麼走這麼遠,還沒回去?」已經有三個人問過我一樣的話。我已經是士兵了。他們怎麼都不知道我是士兵?

這個「矮小又輕」的問題再次讓我焦慮,是在抵達錦川(Cẩm Xuyên)時。兩個人走到我面前,一人手裡拿著筆記本和筆。那人握住我的手,問我叫什麼名字;另一人則滿臉猶疑。他們低聲交談了幾句後離開。過了一會兒又回來,再次握住我的手說:你被選去當許先生(ông Thứ)的聯絡員。

第一次上政治課。沒有桌椅,我們脫下橡膠拖鞋就地而坐。有人靈機一動,跑去民宅借來一張小凳子。他剛離開,我伸手去拿椅子,結果另一隻手也同時伸過來。我們倆搶著那張椅子。我抬頭一看——是我小學五年級的班主任,潘老師(Thầy Phàn)。他兩年前調去另一所學校,現在從那個鄉村參軍。

我立刻放開手,對方也同時鬆開。師生兩人互相讓座。現在,我們是戰友了。

9.入營訓練,吃了頓像樣的飯

在錦川(Cẩm Xuyên)訓練六個月,在香山(Hương Sơn)訓練三個月。

練習射擊、挖壕溝、搭建臨時營房、快速煮食、夜間警報、部隊機動——訓練項目一項接一項。

在錦川訓練期間,我有一次獲准回家十天。

自從我當兵離家,每次附近有炸彈落下,母親就會驚恐萬分地癱倒在地,雙腳重重拍打著地面,邊哭邊喊:「天啊,它把我兒子給炸死了!」母親驚慌哭叫,有時甚至會跑去找鄉隊長,大聲嚷嚷,像是那一切都是他害的。

我回家前,有位哥哥低聲對我說:「你回去的時候,讓我爸也來這裡看看吧。」我說:「你不是也剛回去過十天嗎?」他回我:「我爸想知道我在哪個單位。」

我帶著他父親來到了部隊。兩人剛好在中午時分抵達。我用母親臨行前給的錢,請伯伯去小飯館吃飯。那頓飯有水牛肉、滷魚和一碗魚湯。我是想讓伯伯放心,讓他看到當兵的生活並不缺吃少穿。我們這些兵,如果高興,還會點酒來喝呢。

見到兒子後,伯伯對他說:「小玉在單位混得不錯啊,他請我吃了一頓像樣的飯呢!」那頓「像樣的飯」,後來每次伯伯見到我,都會提起來說一遍。

那位哥哥是想讓父親來請部隊長官准他回家。他希望年邁辛苦又體弱的父親形象能喚起長官的同情。他家裡還有妻子和幼兒需要照顧。

隔天,他搖頭說:「不行啊,沒成。」他接著說:「你做聯絡兵,認識的人多,幫我講句話吧。你就說我吃了這邊的飯,不習慣,鬧肚子了。」

我回他:「幫你說這句話本來不難,但這藉口太難聽了,哥。」

10.南下作戰
1971年1月12日,營隊接到命令南下作戰。

全體人員集合在山光運動場,聽營長宣佈:「我們營隊對美作戰的長征正式開始!」

那天是農曆臘月二十九,除夕前一天。

正當我在集合場上,看到同村的南哥騎腳踏車經過。那一刻,我內心激動得像是見到了親人。我立刻衝上前去,緊緊抱住他,哽咽了好一會兒才說得出話:「以後我沒法請你幫忙帶信了。等你有假回家,麻煩你替我去看看我媽,告訴她我已經上戰場了。」

部隊有命令,禁止攜帶筆記本和日記本。誰有這些東西,要麼託人帶回家保存,要是不方便就得燒掉。原因是怕被敵人俘虜後筆記落入敵手,他們可能根據上面的地址回溯追查,甚至向當地發放傳單,散布虛假信息,製造恐慌。這會讓家長、親戚、鄉親害怕,不讓孩子從軍,也會讓年輕人產生畏懼,動搖決心。

我偷偷把留言冊藏在背包最底層,偶爾拿出來讀讀,也記下行軍中發生的事。

一聲高喊:「出發!」長長的隊伍開始沿著長山山脈東側行軍。

走過渡口時,有兩輛卡車等候我們。

卡車啟動的時候,山街村的燈也亮了起來。

車上大家都保持沉默,因為要保密。不久就有幾個人把頭伸出窗外開始嘔吐。三、四個小時後,暈車的人把胃裡的東西全吐在前排和旁邊戰友的背包裡。

「到廣澤—廣平了,各位!」司機喊道。我們在廣澤休息一天。到了博澤縣巨艶社時,看見村民們在煮粽子、準備年貨,這才想起,明天就是過年了。

夜裡在森林裡繼續行軍,第一場熱帶雨林的暴雨傾盆而下。B-52轟炸機投下炸彈,彈片嗖嗖地從頭上飛過,泥土與石塊四散飛濺。腳下全是泥濘,深及腳踝,背包又濕又重,天黑得伸手不見五指。三十晚上,大地有情,沒有人受傷中彈。

拂曉時,我們抵達559號補給線的第五站。路邊有一鍋白飯倒在樹根下。聽說前一天有幾個小隊沒派人壓飯糰,直接整鍋扛上車,結果今天早上只好倒掉飯來拿回鍋子。到了下午,我們小隊的那鍋飯也被倒掉,理由一樣。

穿越廣治地區後,我接到命令,被編入第320師,參加南寮(老撾南部)戰役。

11. 生涯中的第一場戰鬥

1971年2月2日,我第一次上戰場。

凌晨五點,我們連隊奉命進入601號據點作戰位置。

四輛坦克(稱為一個坦克連)出發,行進途中其中一輛陷入敵方的炸彈坑中,距離陣地還有大約一公里。

敵軍昨天剛空降,今天我們即刻反擊。他們還來不及設置防禦圍欄。

三輛坦克進入戰場。敵軍在據點中使用重火力武器、步槍及遠程火力四處射擊。數十架直升機、數十架OV-10與AD-6飛機在空中轟鳴,向我們進攻方向傾瀉火箭彈。

我軍觀察站回報,敵軍駐守一個步兵營。

這一帶的地形我完全不熟悉。我被編入第320師、第64團、第9營、第11連的第10火力班,也就是60迫擊砲班。

出發前,我被分配攜帶一個重15公斤的迫擊砲底座、11枚砲彈和一把AK步槍,另有100發子彈。

部隊展開隊形,聽從連長指令開火。我們小隊有兩門迫擊砲,我幫2號砲手裝填了五發砲彈,手中的步槍還沒來得及開火。

上午十點,敵軍開始收縮防線,我軍攻佔了橋頭堡與第一線防禦陣地。

此時部隊暫停推進。原因是副營長阮文誠(Nguyễn Văn Tranh)被砲彈碎片削斷左臂,從手肘處整段割裂,只剩下一小片皮膚與肌腱相連。通信兵正為他包紮。他命令通訊兵邱維子(Kiều Duy Tý)立刻將垂掛的斷臂砍斷,好方便包紮。眾人彼此對望,猶豫不決。

「這手已經沒用了,留著也沒意義。」

邱維子拔出軍刀,執行長官的命令。

戰鬥繼續。

一顆AR15子彈穿透了第一連副連長七哥的胸膛。戰場宛如颶風肆虐,敵軍機槍不斷掃射,箭竹林倒伏炸裂。我們是火力支援班,未經指令不得隨便開火。

我被派與一名營級運輸兵抬七哥撤離。他半昏迷地躺在擔架上。

我們一邊摸索前進,一邊詢問路人怎麼穿過溪流後撤。

又餓又累,我們停下來休息。我的飯盒落在戰場上,只好與運輸兵共食他的一團飯糰。

吃完後我一看七哥,以為他已經死了,驚慌不已。運輸兵有經驗,他把手放到七哥鼻下,再摸胸口,感覺心臟還在跳。我們欣喜若狂,加快腳步奔向後方醫療點。

下午五點,我們順利將傷兵交接完成。

飢腸轆轆,我們去找炊事員要飯。他只說:「有水,沒飯。」

我們兩人摸黑往回走,來到一條大溪邊,聽到附近部隊在分飯。我衝過去抓住炊事員的鍋蓋懇求:「我們剛把傷兵送下來,回部隊太遠了,請分我們一小鏟飯吧。」他手指一指:「去掩體裡拿鋁飯盒來裝。」

飯後天已全黑,疲倦襲來。我們請求留宿,對方也沒多說什麼,我們就靠著溪邊樹葉鋪地睡到天亮。

晚上八點,我們終於摸回連隊。昨天的戰鬥,我們班犧牲兩人,受傷一人。

副營長阮文誠殉職。

他在包紮後仍堅持指揮部隊直到下午兩點,部隊奪下陣地,暫時取得勝利。但他再次中彈,AR13子彈穿透大腿,失血過多。

整個營以主動姿態出戰,一天內傷亡過半,僅剩150人。火力班原本9人,還剩6人。

我們在溪邊休整一天,重整隊伍。

休息未完,半夜便接到命令,必須立刻返回昨天的陣地,替換第10連繼續堅守。連隊連夜出發。

12.A Lầy村之戰

1971年4月29日晚上七點,我們接到命令,前往東村會合全營,支援友軍作戰。

部隊列隊完畢後,傳達口令,以防我軍與敵軍遭遇時無法識別彼此。

連長才走遍全隊,反覆講解口令:「問才,答索;問索,答才。」反之亦然。

才是我們的連長,索是我們的政治指導員。

第二組暗號是:用槍托拍三下,對方要拍兩下回應;拍兩下,則對方拍三下回應。

晚上七點,群山一片黑暗。偵察兵打頭陣。我們聽著彼此細微的腳步聲,貼身前行,避免迷路。

沒有聽見飛機聲。只有前方火光閃爍,以及土石與樹木轟然倒塌的聲音。

B52轟炸正好劃過我們隊形。

我被炸彈氣浪掀飛到樹梢,翻滾落地。鋼盔還在頭上。

我爬起來,感覺喘不過氣來,臉上濕答答的。我不停地用手擦拭,原以為是汗,卻發現是從鼻子與嘴裡流出的鮮血。

我回到掩體,其實我們才剛離開幾十步。

「你怎麼還躺著?快去把弟兄們撿回來!」一位前輩怒斥。

我回答:「我頭暈耳鳴,搞不清楚……」

「那你就繼續躺那吧。」

他在黑暗中沒看見我滿臉是血。

我又躺了一會兒,還是硬撐著起來。耳鳴不止,腦袋仍然昏沉。我加入大家的行列,一起去撿回那些我連名字都不知道的戰友。

我們整夜在黑暗中搜尋。天亮後,眼前只見四團混合著血與骨的肉塊。我們繼續撿。得撿乾淨,一個都不能落下。

抬頭一看,樹梢上是腸子;低頭看溪溝裡是腿;山坡另一邊是頭顱。我把這些屍塊一一收集,放進那堆血肉之中。

「連長才呢?」

只見一具軀體癱倒在一間高腳屋的柱腳下。一塊炸彈碎片直貫肛門而入。我翻開臉一看,連長早已僵硬。

我找到了自己的背包,飛出了數十公尺,卡在一棵被炸斷的樹旁。我想像著昨晚自己被氣浪拋上天,和那棵樹同時墜地。我踩到了一顆埋地炸彈。如果那不是掘地炸彈,我的身體現在恐怕也成了那堆被分解的肉塊之一。

我們火力小隊的位置在連隊隊形中間。一人被炸斷頭,一人炸斷雙腿。

各部隊陸續交出死亡名單:58人陣亡,60人受傷。

58份血肉與骨頭,分得大致均勻。沒有人要求對得上,沒有人要求完整。不能,也不可能。

我們鋪上帆布與塑膠布,把肉塊、骨頭,一一收納。

58座墳墓。

第11連指揮部,全軍覆沒。

我當時17歲,在筆記本上寫下:這是第10場戰鬥。

還有多少場仗,在前頭等著我?

13. A Lầy村之戰後**

在阿磊村那場戰鬥之後,我住院兩天。出院時,穿著一套死去戰友留下的衣服和拖鞋。

回到部隊,立刻接到命令,要上新近奪下的陣地駐防。

正值作戰季節,敵軍炮火四面八方,飛機滿天飛。上山的路要穿過溪流與山谷,伙房兵送飯困難,有時兩天都無法抵達。

距離陣地約三百公尺的地方有一處我軍糧倉,一個多月前已被焚毀。排長派兩人去搜看看是否還有能吃的東西。這行動也很冒險,因為敵軍經常在糧倉附近與乾糧桶底下埋地雷。

一個多小時後,兩人扛著一桶焦黑的乾糧回來。我試著刮掉黑炭一樣的外層,只留下手指寬的一點點還呈粉紅色的部分,放入口中強忍著咽下去,但苦到無法吞嚥。

我帶著槍,在陣地附近轉了一圈,看有沒有敵軍遺留的食物。找到幾包戰友留下的飯,那些人早在一週前就已陣亡。我帶回來,用刀削掉發霉長青苔的外層,內層有股酒味。我分給每個人一塊,大家快速吞下。

敵軍的遠程炮集中轟炸23公里處的826高地,連續轟炸十一小時才停。接著,敵軍從山腳三個方向同時爬上來。

距我們約五十公尺時,敵方指揮官大喊「衝鋒!」我們早已在內等待,立刻開火與投擲手榴彈。雙方激烈交戰了一個小時。敵軍死傷無數,潰退下山。我們趁機打開死去敵軍的背包找食物,每包裡都有飯、米、肉卷與香菸。我們邊吃邊笑說:「要是每場仗都有這樣的收穫就好了。」

我開始發高燒,發燒與口渴持續四、五個小時。我迷迷糊糊地躺在交通壕裡。天色昏暗時,指揮官安排我跟隨伙房兵送飯路線返回營部拿藥。我每三小時發燒一次,身體已撐不住。醫護人員安排我撤到後方。

1971年5月下旬,南寮戰役結束。我被送往團級醫院,接著轉至B5戰區的前線醫院。

到那裡我才知道,戰地臨時醫院早已人滿為患,無數從前線送來的傷兵與瘧疾病患排滿整條撤離路線。所有瘧疾與重傷病患必須送往更後方。

軍醫安排我搭上北撤的車。當我們翻越廣治的900高地時,因前方道路剛被炸中,工兵正在搶修,車輛停下。我在車上顫抖發冷,時醒時昏。整車十人,只有我是瘧疾患者,其餘全是重傷兵。沒人能坐起,也沒人說話。偶爾有人因疼痛而大聲喊叫。一顆炸彈在山丘旁爆炸,土石砸落在車斗上,擊中幾名躺著的人,又是一陣痛苦的尖叫。

路搶修完畢,車繼續前行。隔天黎明,我們被抬入一處寬大的岩洞。我退了燒,恢復意識,站起來走動。岩洞裡雖人多卻涼爽。有發電機供燈,有地下水可供生活使用。這是B5戰區的野戰醫院與指揮部所在地。

我在那裡待了一天,親歷十五次空襲。每次炸彈落下,山上白石崩塌,灑落在洞口,如同石灰粉傾瀉。

隔天,我們再次搭車撤離,這回又加載了十五名重傷兵。他們躺在鋪了樹葉的地面上。路況極差,車身猛烈搖晃。有些路段剛修好幾小時又被炸毀,只能停車等待。

深夜,我們抵達永靈地區。醫護人員衝出來抬運重傷者。輕傷者則被扶著、背著送進臨時病棚。移動病床就是用兩根小木頭架著一張木板。人們動作溫柔而溫暖。我感覺自己彷彿回到了家。好久沒體會過家的溫度。

清晨打完針後,我帶著衣服去溪邊洗。浸泡在永靈清澈的溪水中,我的眼淚忍不住潸然落下。怎麼會這麼安靜?沒有炸彈轟鳴,只有遠遠的、稀疏的步槍聲。

我洗了兩套衣服,一套長衣,一套內衣。醫院沒有肥皂,我只能找來粗糙的石頭來刷洗那些乾掉的血漬。

這兩套衣服並不是我的。接下來要穿的,也不是我的。它們原本屬於那些倒在戰場上的人。

同志啊,你這衣服多久沒洗了?我正替你洗衣服,也將穿上它。我正在仔細擦去那些乾硬的血痕與泥土。

一個士兵也下來溪邊洗澡。他看了我的臉,問我是不是新兵。我跟他說了關於衣服的事。他拍拍我肩膀說:「唉呀,這太平常了。你是新兵,我們可是六七、六八年的老兵。不是只有你撿死人衣服穿。我這條褲子被炸彈炸掉半截,我都不知道它原本是誰的。」

14.越戰越南化,進山和山民換食物
南寮戰役結束後,我們部隊返回奇英駐紮。1971年10月底,接到前往「B長征」的任務。

七天行軍休息一天。一個月後調整為十天走一天休。行軍一個月零二十九天後抵達中印支三岔口。我們被派往崑嵩。

崑嵩正值乾季。森林中無人煙,彷彿從未有過人類足跡。山中毫無糧食來源,溪流乾涸。師部在此地紮營搭棚,繼續政治學習。

上政治課,教師是從北方來的。我們默默坐著聽。

「越戰越南化」是美帝的陰謀和伎倆,是讓越南人打越南人、以減少美軍傷亡的戰略。越南共和國的軍隊由美國提供經濟與軍事援助,是為美國打仗的雇傭軍。

我們軍人的使命是保衛祖國、統一國家。

我國中七年級還沒念完就丟下課本從軍了。

對國史的認識仍模糊,直到今天這堂歷史課,才真正刻入血液。

白天上政治課,晚上肚子餓得發痛。

飢餓,讓人什麼都想吃。腦中時時刻刻只想找點能吃的東西。

首長們出外偵察,只留下兩名副指揮官與士兵。

每人每天糧配四兩米。沒有蔬菜、沒有配菜、沒有鹽。

但四兩米的配額也撐不久——米沒了。

我們進山找植物、葉子試著嚼嚐,判斷能不能吃。有時走兩三公里找到野葛。乾季時野葛葉子凋零難以察覺,得靠眼力與經驗。

隔天再走三公里,發現一片像椰子的樹林。大家稱它「山椰子」。這種樹高大粗壯,我們爬上去砍頂端,削去外殼,吃裡面嫩芯。全連聚集起來採集。才兩天,已砍倒好幾公頃。怕暴露駐地,師部禁止再砍。

日子就這樣熬著。沒上課就進山覓食。見什麼都咬咬看,苦的就吐掉。

我找到一株苦味絲瓜,回去通知小隊的兄弟。隔天要再去摘時,只剩幾個果實。原來是別隊聽到後搶先採了。

春節來了,這是我從軍後第二個春節。第一年過年還在行軍路上。那時的年節是接連不斷的炸彈轟炸。後來又在戰場上過了三個春節,才覺得這一年的春節最為安寧。

春節配額:七人一兩水牛肉,五人一兩豬肉,一人兩兩糯米,三人兩兩糖,三人一兩散煙加捲菸紙。

小隊討論後擬定計畫:帶著私人物品進村莊換糯米。

駐地距離最近的村莊十五公里。

我們能拿什麼去換呢?

準備了橡膠繩(可替換鞋帶)、毛巾、眼藥水、手帕、親人照片等。

打開背包,大家有什麼貢獻什麼。

我與小隊長「祁維緹」出發去找村民換物。他現在是小隊長了。我們得偷偷摸摸出發,不能被師部與其他單位發現。

晚上九點,我們兩人出發。手電筒只讓光線像玉米粒般大小。用指南針朝西南方前進。

摸黑沿小徑走,次日清晨抵達村莊。我們講京語,他們說少數民族語。

我們拿出東西展示,用手勢交換。

小隊長示範將橡膠繩與鞋底組裝成涼鞋。一雙鞋子立刻完成。

村民喜歡嗎?喜歡。

那就用一段橡膠繩換兩筒糯米。村民答應了。五段橡膠繩換得十筒米。

我拿出眼藥水,替三個眼睛發紅的村民點藥,讓他們感受到這是「寶藥」。

他們回頭交頭接耳,片刻後更多人湧來。我與小隊長像街頭魔術師般表演,在驚訝的眼神中點藥。

村民開心嗎?人人點頭。一瓶眼藥水可換五筒米。

一條手帕可換兩筒竹筒飯。繡上「獻給最親愛的」與花朵的手帕換了三筒。

還有女朋友的照片。小隊長叫一位年輕人來,問:「喜歡嗎?」喜歡。那就換,等她來接人吧。父親的照片也受到村民喜愛。

傍晚時分,兩個背包塞得滿滿。交換物品已全數用盡。我們約定明日再來,會帶更多珍貴東西。

一位女孩露出惋惜神色。我說:還有這個可換。我把她拉到角落,指著我身上那條紅色短褲。她表示願用一背簍青菜換這條紅褲。

穿越森林回單位,等到天黑才敢出來。若此事被發現,會被處分。

兄弟們浸泡糯米、包粽子,向炊事員借鍋煮飯。除夕夜我提一顆粽子去送副連長。他驚訝問:「哪來的粽子?慘了慘了,你們這樣做會出事!」

在西原那幾年,先談「吃」,再談打仗。

我們連鹽都缺。整整一個月沒有鹽。

沒鹽怎麼辦?

砍竹子,燒其節點成灰,當鹽用。或猛吃辣椒代替。

某日,有人高喊「有鹽了!」——那是鹽礦,從山中挖來的鹽塊。大塊頭鹽,放入軍鍋煮開,湯黑又髒。

繼續熬,像煉膏一樣,整天熬,直到融化成細鹽,才分給各單位。

我們顫抖著拄著杖從山坡下爬上去。山坡上出現一位村姑。她下山,裙擺飄揚,面容清麗,為一天的疲勞增添一點興奮。

走到半坡,士兵們慢下來,她也慢下來。彼此對望,靠得很近。

小頑童鍾用棍子挑起她的裙子說:「哎,村民,這是什麼?」

原來這姑娘是村長的女兒。

傍晚,我們回單位時,她已與父親一同前來等候。父女倆向長官舉報。

「部隊不規矩,看到我女兒的寶貝。咱村從未有過這種事。現在她沒人敢娶,嫁不出去了。」

政治部與外事部門出面協調,村長開口索賠三百公斤鹽。

不賠就開槍打兵。

三百公斤鹽對一個師來說可用很久,從北方運到西原更是難事。這些村民居於敵我之間,我方正爭取他們支持,若失民心,後果嚴重。

雨季來臨。森林翠綠清涼。

溪水復流,大家去捉魚。砍蕨類樹,取其芯與魚同煮。這種蕨類多年成木,高大如樹。

一位隊員採回一籃蘑菇煮粥,結果中毒。七人嘔吐腹瀉。全連僅存一斤糖,原為指揮部急救所用,最後也拿來解毒。

找到一片香蕉園後,連續幾天只吃香蕉充飢。結果便祕一週,人人如大病初癒。

偷偷去挖村民的樹薯。煮得半生不熟,還沒通知大家,敵軍飛機已來偵察。「死就死吧,老子要先吃!」來自高平的湯哥跑著,手裡還拿著熱薯。希望他嘴裡含著薯的時候別受傷。

我進村時已無人,他們不知遷往何處。只剩一條狗。我打死帶回給兄弟充飢。

瘧疾病患每週配一次魚醬,每人一湯匙。從柬埔寨運來的魚醬早已變味。昏迷中,我夢見自己吃著一碗熱飯配芝麻鹽。

從寧平、清化出發的一百輛補給車,有多少能穿越義靜地區?有多少能抵達廣治,再進入西原?

有多少補給車半路燒毀?有多少司機受傷?我們知道為何會餓,我們得想辦法活下去。

哨所沒吃的,炊事兵送不上來,我們就希望敵人來——因為敵人背包裡有糧。

高地兩個據點A與B。據點A擊斃敵軍,繳獲一袋米。夜裡敵軍不來,我們半夜拿敵軍彈藥箱(當鍋用)煮飯,並通知據點B的兄弟過來一起吃。

六人蜷在矮坑中等飯煮熟。個個眼巴巴望著鍋子。新兵不知要先拆橡膠圈就開煮。結果——砰一聲巨響,鍋蓋炸飛,米飯濺得滿臉滿眼。全員燙傷。據點B的兄弟被燙得最重,一隻眼睛失明。那一夜,他是被「米炸彈」炸傷的。

15.1972年崑嵩戰役,全連戰沒

**1月12日夜間**

第九營包圍了1015高地。

高地上駐有一個由潘孟雄指揮的敵軍連隊。

被俘後,潘供稱自己是北方人,1954年七歲時隨兄長南下,後加入越南共和國軍。他的母親至今仍在河內銀街賣茶水。他不希望母親知道自己的消息。

敵人在這個高地駐紮已久,設有雙層鐵絲網,壕溝工事堅固。我們營分三個方向進攻,開火一整天仍無法攻下任何碉堡。我們雖包圍敵軍,但只能堅守在據點外,敵人從裡面盡情開火,我們趁敵人火力稀疏時向前推進幾米,整夜僵持不下。

通訊線斷,無線電無信號。次日清晨我親自跑去東側送命令。營長范文誠告訴我:「同志去第十連,傳達營部命令,用D.K火箭打七發開路,必須迅速攻佔陣地。」

第十連由和平同志指揮。1月10日第十連剛攻下982高地的特種部隊據點。

從指揮部到第十連空距約兩公里,但實際得繞四公里山路。我與湯同志同行。

我們必須繞過敵軍前哨陣地,那些陣地位於密林溪谷間的小道上。飛機不停投擲子母彈和火箭。我們身上只有一支AK和兩顆手榴彈。

我對湯說:「耳要靈、眼要尖、行動無聲、緊跟我,若遇敵即刻開火,聽我命令。」

三小時後我們才找到和平同志。他說:「請回報營部,請求增援,第十連已傷亡過半。」

我們與兩名抬擔架的運輸兵一同撤退。

途中,一支敵軍小隊從14號公路上來,正巡邏並支援高地。

兩名運輸兵將傷兵放在樹下,讓其休息,自己則與我和湯一同迎敵。

他們僅有一把槍。按理每人應配槍。我說:「四人三槍也能打,打下來搶他們的槍。」

我們緊跟敵軍,激戰逾一小時,我邊開火邊高呼衝鋒,四名敵軍當場倒下,餘者逃跑。戰鬥簡潔乾脆。事後我獲表揚。

**1月16日**

我與營長范文誠及一偵察小隊巡視戰場。部署完防守部隊後,上午八點敵軍炮火猛烈轟炸陣地,調來一個步兵營企圖奪回昨日失守的高地,連續施放催淚彈與化學彈。我們淚流鼻涕、眼花頭暈。

三個水壺全空。找不到營長的毛巾。我尿在自己毛巾上,撕一半給他,敷在臉上減輕毒性。

我們剛返回指揮所,敵軍步兵即包圍我們剛離開的陣地。當時陣地僅有20人及一台無線電。敵機投擲子母彈、照明彈與凝固汽油彈,回報傷五死五,剩十人。

下午三點敵軍步兵進攻,剩下十人奮力反擊,敵人未能奪得一寸陣地。

第九營堅守此地一週,激戰十二次,補充一百兵力遠不及損失。

師部來電:我軍已掌控敵軍外圍、防住14號公路、控制二十公里,並繼續擴張戰果。

我軍開始北撤,進逼崑嵩市郊。

**1月23日**

14號公路601高地,該區滿是藤竹荊棘,寸步難行,砍草會引敵,只能踩刺前行。

距敵百米時被發現。儘管如此,兩路步兵至夜十時仍接近第一道鐵絲網。該點敵設五重鐵絲網。我們用擴音器呼喊。敵人已損兵半月,補充有限。

擴音器一響,敵軍火力如雨傾瀉。

**1月28日**

攻擊鋸木廠據點。該處為14號公路西側一高地。

摸黑一夜,才設下營指揮所。

清晨六時,第十連涉水到達戰場。敵軍發現,集火轟擊,槍聲不絕,第十連多數被困在溪邊。

第十一連走失。我奉命尋找。

獨自穿越藤竹林,炸彈仍落。我站高地觀察方位,邊跑邊辨方向。

帶領第十一連回陣後,返回營部,約凌晨一、兩點。照明彈不停、飛機投燈、炸彈使竹林橫倒。我跌倒,竹子劃傷腳踝,血流不止。右手握著AK槍機組件,跌倒時手掌被刺穿。我坐起,撕衣裹傷。

天亮時終回到營部,眾人見我手腳血淋淋。我極痛,卻強裝若無其事。

「當兵就是這樣。」我脫口而出。

自己都驚訝說出這句人人掛在嘴邊的話。對我而言,第一次說出,內心悸動。我是否已變得堅毅、成熟?

儘管敵火不斷,第十連仍在挖壕。人臥地挖,和平同志挖至膝深,其餘人僅二十公分,堆土作掩體。

下午一點敵軍向第十連進攻。

三點,第十連全軍覆沒。

連長和平戰死壕邊,上半身趴於壕口,下半身被敵人扯開手榴彈安全扣引爆炸碎。我摸其胸膛尚溫。我憤怒如火,代營部指揮作戰。

我命第十一連接替第十連,並命運輸兵收殮烈士遺體。任務完畢後,我向營部方向前進。離陣不久,草叢傳出呻吟聲。我爬進去,找到與我同入伍的2W士兵余與另一名步兵。兩人下午受傷躲入草叢。我扶他們回營部。

運輸兵將第十連烈士遺體放置營指揮壕中。半夜我出去認識面孔。我饞菸,摸索烈士衣袋,在一人衣袋找到皮夾,裡面有女友照片與一小撮菸。我將照片放回原位,取出菸絲,低語:「兄弟,你走了不能抽,這煙我拿了。」我當場捲菸深吸一口。

第十二火力連得知第十連覆滅後,12.7機槍、82迫砲、D.K.Z齊發,敵軍支撐不住一小時潰逃。第十一連衝鋒。

敵軍挾一群平民,混入群中撤向崑嵩市。我營三路包抄,敵我混雜延綿數公里。營長命我通知第十一連攔截群眾。追出兩公里遇一敵軍據點阻路。敵火封鎖,我軍恐誤傷平民,臨時決議改向,兩連合圍據點。320師分多路攻崑嵩市。我營北攻,進至圓丘後精疲力盡。

此時我營兵力僅剩一連,師部無兵可補,轉為「圍困滲透」戰術。該據點為朴正熙軍人。我軍封鎖內外兩月,敵困不出不入,狙擊不斷。第三月66團接替,一夜攻克。第九營火速轉進嘉萊。

途中遇雨,四月以來首場清涼大雨。四月未曾休息,眾人皆嗜睡,邊走邊打盹,道路濕滑,跌倒接連不斷。

經過師部醫院,我遇村人壽,炸彈炸斷左手,他需長期住院。久別重逢,鼻酸流淚。我握他僅存的右手說:「若能回北方,請告訴母親與妹妹,我仍健在,正戰鬥中,不知何時歸。」

---
16.泥沼軍官學校」受訓,保護自己活著回家

崑嵩戰役結束後,我被選派去B3軍政學校學習。整個營只有四個人被挑選去上學。這四個人都是「動作快、理解快、靈活能幹」。

我們從部隊出發,一路問路前往學校。雨季時,路兩旁有很多東西可以吃,新鮮的嫩竹筍特別多。走了三天,我們才找到學校的所在地。

軍政三校設在柬埔寨境內。很多人稱它為「泥沼軍官學校」,因為那裡的森林全是泥濘地。從學校要去其他部隊,就得走「猴子橋」(一種簡易吊橋)。那裡的水是紅褐色的酸性水,既不能洗,也不能直接涉水而過。

我們這一批學員來的那個月,天天只能靠木薯充飢。因此這裡還有個別名叫「木薯葉軍官」。

我被分到C3班,也就是培訓排長的班級。在班上,我是年紀最小、體格也最瘦小的一個。

來到這裡的七天裡,我每天都得背子彈、背木薯,還沒吃上一頓像樣的飯,住的地方也只是躲在地洞裡,穿的衣服又破又爛,艱苦程度與前線無異。

「我要回部隊了。」我對一位同鄉、在學校當教員的大哥說。

「為什麼?」
「我以為上學是件舒服的事,沒想到這麼苦,還不如回戰場打仗,至少還有點用處。」

他說晚上帶吊床來他那邊,聊聊心事。

晚上,我去了他那裡。

他說:「你別以為留在前線就進步快,而來這裡上學就是吃苦。」

我說:「我也不是為了升遷什麼的,我只希望這場戰役快點結束,好回家。出來太久了。」

他說:「我啊,從1962年就出來了,十多年沒回家了。進來打了幾年仗,後來學校成立了,我就成了第一批學員。畢業後就留下來當教員。」

「跟你說,這裡好就好在能避開炸彈和炮火。平時工作就是上山種田搞生產,隔幾天上一次軍事課、政治課,學些政策和歷史。」

「聽哥一句話,能留在學校一天就多一天。能躲一天戰火就多一天。多少人想往後方調都調不走。我們有機會來上學,卻還想回前線拿槍。」

「你啊,戰爭雖然殘酷,但只要方式對了,我們還是可以保住自己。」

聽了他的分析,我的頭腦清晰了一些。原本有幾句想反駁的話,但一想自己是晚輩,還是安靜聽著吧。比如我想問他:「那那些還在前線守哨的戰友怎麼辦?我們常說『守哨就是等死』,我自己也好多次以為死定了。」

他突然打斷我的思緒:「你現在缺什麼,我幫你?」

我說:「我什麼都缺。連紙筆都沒有,肚子總是餓。」

一個月後,他被調上去了,負責更高層的教學工作。我們就再沒見過。後來我回家鄉,才知道他已經退休,官階還不低。

17.逼受傷戰友衝鋒,找受傷老戰友

這是第43場戰鬥。

清晨五點,營部已經開火,我們的排負責衝鋒破口。我大喊著讓所有人從戰壕裡衝出來,直奔敵軍據點。

從軍校畢業後,我被派任突擊排排長,要上前線據點去駐守。

戰鬥中我一邊打,一邊觀察弟兄們的情況。

Huỳnh和Quý兩人掌管著M79榴彈發射器,是我們排的主力火力。但這時他們兩人還在壕溝裡折騰。我跑進去看。

「報告,同志Quý受傷了。」

「哪裡受傷?」

「頭部。」

我掃了一眼,只見他額頭上有一塊乾血斑,看起來就像一隻蒼蠅停在額頭上。年輕人這點小傷算什麼?我一把抓住他衣領,把他從壕溝裡拖出來。

「想逃避是不是?你看前面弟兄死了一片了!」

Quý還是猶豫不前。

我甩了他一耳光,又踢了他一腳。

「快衝鋒,支援兄弟!」

Quý只好衝了出去。

我們奪下據點後回到壕溝休息。這才知道,Quý是真的受傷了——M79榴彈在壕溝口爆炸,彈片射進他額頭,卡在骨頭裡,因為血被堵住沒流出來,我才誤以為他沒事。

他被送往後方,先進了營部醫院,後來轉到師部醫院。聽說那塊彈片穿過了鬆質骨進入了硬骨層,醫生鑿了一公分深都還沒取出來。

我心中愧疚、自責。

部隊繼續往前推進,參加更大的戰役,我便再也沒有Quý的消息了。

後來我知道,Quý是1972年從河靜省奇英縣奇上社入伍的。

1976年戰後我回到家鄉,常常想去找這位老戰友,看看他的傷怎麼樣了、現在的生活如何,也想親口向他道歉。

兩百公里的距離,卻始終沒能成行。年復一年,一拖就是幾十年。這件往事成了我心中的重擔。

後來經人介紹,我聯絡上了兩位以前同連的弟兄,他們住在錦川縣,年紀與我相仿,但因我曾是連長,他們至今仍稱我為「大哥」。我託他們幫我到奇英打聽Quý的下落。

錦川離奇英看似不遠,可年年打聽,總是回覆:「還沒找到」。兩人都記得我交代的事,但說到底,也沒人真正花時間跑一趟田裡幫我找人。

後來有位在錦美的朋友在山裡放牛時丟了一頭牛,那頭牛跑到了奇英地界。他去找牛時,順便幫我完成了這個多年的心願。

原來Quý還活著,住在奇上社。

這下我可以放心去拜訪了。我急切地催促錦川那兩位老弟安排時間同行。但從我催他們到真的出發,又拖了快兩年。每次都因各種理由延遲。

我終於不再等待,決定自己動身。

一到村口,就遇見一個挑著擔子去割稻的年輕人,還有一個住在十公里外、正準備去魚塘工作的人。我下命令說必須走。割稻可以明天再割。他只好請人幫忙割,因為如果不快點收,怕被牛踐踏。

我們三人騎摩托車直奔奇英。

在12號公路三岔口停下詢問去奇上的路。一位女教師說:「跟我走吧。」她自稱是老師,我便問她認不認識一位叫Quý的傷殘軍人,她搖頭。到了奇上社,她便與我們分道揚鑣。

奇上一、奇上二,到處都有叫Quý的人。問路人也只是隨口一答就離開。

我們三人站在路邊等。一位青年騎車載著一位拄拐杖的老人,看起來像是退伍軍人。問一下果然就是。

老人告訴我們,在奇上一社有個叫Quý的二級傷殘軍人,腦部受過重創。他家在與廣平省交界的森林深處。

我們總算找到了。他兒子讓我們稍等,便騎車去接父親回來。

那是一棟簡陋的老屋。我們想看看牆上有沒有他年輕時的照片,但什麼都沒有。床上躺著的是他太太,據說長年患病。

Quý不認得我們三人是誰。

雖然不認得,但老戰友見面,還是得喝點酒再說。他兒子端出一籃鴨仔蛋和一箱啤酒。

鋪上草蓆,邊喝邊聊當年戰事。聊到第四或第五場戰鬥時,Quý才終於想起我是誰。原本還你你我我地稱呼著,

Quý突然改口叫我「首長」、「大哥」。

Quý說:「我也很內疚,當時兄弟們死傷一半了,我卻還抱著M79躲在壕溝裡支援。」

四十多年來,我們第一次能坐下來聊個痛快,話怎麼也說不完。直到凌晨三點,我們一起去溪邊洗澡。離他家半公里,有條從廣平流出的溪水。我們一個提手電,一個提煤油燈,來到溪邊脫光衣服,泡在水裡,彷彿又回到了當年還是士兵的日子,在崑嵩地區滿身紅泥、趁著取水順便洗衣服的時候。我們大喊、我們大笑,說自己是瘋子。溪邊的石頭,就像當年我幫戰死兄弟搓洗衣服的那塊。

我們笑著,卻止不住淚水。



18.據點旁腐爛的屍體

雨季不能發動大規模作戰,部隊集中於穩固據點,配合進行小規模突擊。

1974年6月6日晚上七點,我被召到連部接受任務:明天一早,我們的中隊必須抵達5B路段,埋伏擊打敵軍增援部隊。

當時已是晚上九點,從連部返回我的中隊駐守地有一公里多,全是濃密的叢林,沒有燈、沒有火把,黑漆漆一片。回到據點時,有人正在站崗,有人還醒著。我立即召集所有人起床準備戰鬥,晚上十一點整隊出發。

除了我,沒人知道路線。我也只是看了地圖,快速記在腦中。這片區域我們從未踏足,天氣變化無常,敵情多變,我們的據點也經常變動。我走在前頭,後面跟著十八名戰士。翻過兩座山丘,涉過兩條溪谷,到達目標地點時是凌晨三點。弟兄們開始挖掘戰壕、架設迫擊炮底座。我和三位排長觀察地形,為各排、每個人分配任務。提醒大家不可入睡,要將耳朵和眼睛朝向各方偵聽。這時應該已是清晨五點多。我巡查完火力排,靠著一棵大樹抱著槍沉沉睡去。

士兵的直覺讓我迅速驚醒。天已大亮。一睜眼就覺得不對勁——陣地太空曠了。弟兄們躲在野草叢裡,只遮住頭部,腳全露在外頭。敵軍據點離我們不到半公里,只要敵人一蹲下就能發現我們,隊形立刻就會被殲滅。我心裡慌了,但面上不敢表現出來,怕弟兄們察覺。

中午九點,伙房兵終於將飯送到。我接過飯。身上背著一把AK槍、三個彈匣共120發子彈、四顆手榴彈、一把刺刀、一壺水,還有所有人的飯。我匍匐前進,把飯逐一送到每人手裡。就在此時,我聽到汽車聲。我連忙爬回去叫醒正在打鼾的排長阿祥。等得太久,他竟然睡著了,我搖了半天才叫醒他。

一輛CMC軍車停下,車上的士兵全跳下,直奔我們陣地方向而來,完全如計劃所料。我首先開火,並大喊「衝鋒!」同時喊話要求敵人投降。

戰鬥結束後,大家都有點恍惚。我們立刻將俘虜押走、撤離陣地。走入森林深處後才綁起俘虜,稍作休息。從前一晚接到任務開始,連中午飯都還沒吃。所幸沒人受傷,彈藥耗費不多,還俘虜了敵軍。我因此被稱為當年的「優秀中隊指揮官」。

三天後,我踩到敵人先前埋的地雷。野草和植物已覆蓋其上,完全沒被發現。這是我第三次重傷,進了醫院躺了三個月。出院時腳步還不穩,就接到命令重新上山駐守。拖著跛腳爬陡峭岩山,痛苦不堪。

高地白天日照炙熱,晚上寒風刺骨。每人只有一套破舊長袖衣服,沒有棉被也沒蚊帳。

守哨時緊張焦躁,吃不下也睡不好。神經緊繃如弦。伙房兵送上飯時,大家只能吃下一碗。山腳下是敵軍步兵,山頂上每隔十五分鐘就有炮彈飛來,炸彈無規律投放。

剩下的飯,我叫弟兄們拿去陰涼處晾乾,準備下次再吃。不敢曝曬在太陽下,怕被敵人發現。晚上,一群老鼠來偷吃這些飯。我做了陷阱,抓到十幾隻大老鼠。我問大家要不要吃。大家聽說老鼠肉能吃,都想試試。

老鼠被烤過後宰殺、剁塊用油煎。那油是我跟伙房兵討來的。弟兄們興奮地等著品嚐。

隔天一早我巡視哨所。風從第二哨口吹來,阿平和阿治站崗時說:「我們聞到像人肉腐臭味。」我停下腳步。的確是很熟悉的腐臭味。

我沿著倒伏的茅草走了十公尺,看到滿地老鼠糞,旁邊躺著五具腐爛的屍體,只剩頭骨與手腳的輪廓。老鼠咬過的痕跡還很新。

當初交接據點時,友軍就提過:兩週前他們曾殲滅一個敵軍巡邏小隊,屍體就曝屍於此。他們怕臭,只簡單掩埋。結果被老鼠翻出來。


新兵見到這一幕都感到反胃,有人當場嘔吐。但只要在叢林裡打過十場仗,就什麼都見怪不怪了。


19.先笑後哭的第四個戰地春節

部隊轉移到一個秘密地點,靠近14號公路。我們正在挖掘掩體時,聽到幹部說今天是除夕(三十日)。幹部會知道,是因為戰區補給給他們一本小日曆。士兵們則完全不知道日期。在這片地區,沒有平民、沒有交通聯絡,只有敵人和砲火。

掩體挖好後,大家又挖了一個半地穴半地上的坑道,用來作為春節臨時會場。

一張桌子是由幾根小木頭拼成的。一根多枝的大樹枝被用來插上“花”。胡志明主席的遺像是那本日曆的封面。點燃的乾柴枝充當香火。生水當作酒。一小盤鹽放在旁邊,象徵食物。

節目是「民主採花」(即抽籤式表演節目)。

我打開紙條:同志玉與同志典要笑出三十六種男人的笑聲。

兩人互相握手,開始笑。

哈哈、嘻嘻、呵呵、嘿嘿、呼呼……才演到第六種笑,大家已經笑到東倒西歪。情緒高漲,我們笑得停不下來。主持人已經數不清到底演到第幾種了。

突然,主持人的臉嚴肅起來:「不准笑了!」
「哈哈哈哈呵呵呵哈哈哈哈哈哈哈——」我完全止不住,繼續狂笑,「呼呼呼呼呼喔喔……」
有人衝過來摀住我的嘴。火把被吹滅。敵機空襲警報響起。

十分鐘過去。主持人說:「我們繼續吧,剛剛那位同志笑到第幾種了?」

一片寂靜。

接著,是哭聲。有人哭著回憶家中與母親一起倒數跨年的那一刻。有人哭,是想念已經死去的朋友。

「誰哭我就處分誰!」主持人大喊。
但已經沒人理會他的話了。


就這樣,我們在中部高原的山林中,度過了第四個戰地春節。



20.追擊南越敗軍,待產的南越軍婦

第320師正追擊並阻擊敵軍,防止其經由7號公路從中部高原撤退至綏和(Tuy Hòa)。

地雷炸毀了橋樑,敵人無法通過,只能被迫後撤。逃難的民眾也因無路可走而被迫返回。但敵人沒有後退,民眾也沒有回頭。數以百計、數以千計的車輛擁擠在道路上,人群一片混亂。被擊中的卡車起火燃燒,屍體壓在車下。兒童哭喊著找不到家人,四處是絕望的尖叫。

群眾成群結隊逃入森林,試圖向平原方向逃命。他們逃離越共。因為留下來,就會被越共殘害,照樣會死。越共是惡獸,會剖腹挖肝。人民就是這樣被宣傳的。

他們逃離越共,逃向7號公路,逃向平原,逃向河口與大海。逃命,尋找生路。

死亡人數無法統計。有人餓死、渴死、被流彈擊中而死,被炸彈炸死。

屍體曝曬在陽光下。有的被坦克輾碎,散發惡臭。民眾因缺水而不敢下溪取水,怕迷路。埃地族人拿水出來換金子,一壺水換一錢黃金。

一個沾滿泥巴的小孩。我把我的水壺遞給他。可我得繼續趕路,跟上作戰進度。

我們在夜晚通過富本(Phú Bổn)和蓋橋(cầu Gãi)。那一週大家飢渴交加,看到水都很激動。俯身直接喝水,用鋼盔舀水大口吞下,趕快裝滿水壺。

隔天早上,我們看見昨晚喝水的地方,滿是浮起來的屍體,堆積在河岸上。繼續前進,到達靠近芒芒坡(dốc Mồng Mồng)的37號運河時,屍體也是一樣地漂浮滿水面。

昨天,我們決定釋放20名在前一天傍晚阻擊第45師戰鬥中生擒的俘虜。我們命令他們脫下軍服、扔掉武器,然後朝邦美蜀(Buôn Mê Thuột)方向走去。

「請救救我太太。」

一名男子懇求地看著我身邊的胡英(Huỳnh)同志,他是連隊的衛生兵。肩上背著一個有紅十字標誌的藥包。

那名男子正扶著一位婦女。他們已經沒有力氣再逃了。婦人癱軟地靠著丈夫,褲子已被浸濕。

他們一起把那名婦人帶進森林邊緣,離開了人群。她羊水破了,大出血。她一直努力追著丈夫逃命。

「她流產了。」胡英說。

他幫她打止血針,並一步步設法挽救她的性命。

那名男子脫下軍服,掏出身上藏的手槍,扔到遠處。

昨天還互相拿槍指著對方的人,如今卻在這種情況下一起坐著。婦人尚未恢復,胡英也無法離開。他已經與部隊脫隊很遠。

「那時你們說了些什麼?」
隔天晚上吃飯時,志進(Tiến)問我。當時我們部隊正在森林中紮營,等待命令。


胡英還來不及回答,空中的子彈灑落下來,正好打中我們的飯桌。志進握著筷子的手臂被炸斷了。

21.七個共產黨軍人爬上木瓜樹枝也不會折的謠言

我們第一晚抵達綏和(Tuy Hòa),住在當地一戶人家中。那是一個有女兒正在參加地方部隊的家庭。我們安心地說:「這是革命家庭。」

入夜後,我打開 National 收音機讓全家一起聽。老伯聽到河內廣播報導這次作戰行動時,興奮得站起來大聲說:「對,這麼說就對了!」

半夜我睡得正熟,忽然感到癢癢的,一睜開眼,發現那位母親正拿著煤油燈,一個一個地摸我們的手腳。我驚醒問:「阿姨,妳在做什麼?」她也嚇了一跳,說她聽人家宣傳說「七個共產黨解放軍爬上一根木瓜樹枝也不會折」,所以來看看我們的四肢,是不是真的那麼輕。

「七個共產黨軍人爬上木瓜樹枝也不會折」——這句話我們以前就聽過,只當作笑話,大家閒聊時說著玩。沒想到今晚在綏和真的從一位母親口中聽到,才知道這類謠言是真的被宣傳出去的。

第二天下午我們到出海口洗澡,有一群小孩和十歲出頭的少女跟著我們跑。我們不好意思,只好不洗。我拉著一個女孩的手問:「妳們跟過來做什麼?」小女孩說:「要看共產黨軍人的尾巴,因為你們像猴子一樣有毛、有尾巴。」

這時我們才知道,當地民眾被灌輸了很多對北方解放軍非常可怕的宣傳。很多人不敢正眼看我們,一旦我們問話,他們就低著頭小聲回答「是、是」。

營部交代我們包圍一座村莊。各個排隊分別駐守在三叉路與四叉路口。敵軍若混進村裡,若無法逃脫,就會脫掉軍服、穿上民眾的衣服混淆視聽。

村民煮飯,準備了很多好吃的給我們。路過田野時,看到有兩位大姊挑著沉重的擔子跟在後頭。原來她們挑著米粉卷(bánh cuốn),要拿來給我們當晚餐。

晚上吃的是白米飯與筍子燉鴨。各家出米、出食材,也有些人拿來酒與啤酒。部隊長官提醒我們:「在這種情況下,最好還是得保持警惕。」


啤酒和酒都擺出來了,但我們不敢喝,怕敵軍偽裝成平民在裡面下毒。


22.從古芝地道攻打同維基地,受傷昏迷住院,南越女醫師救回


部隊上車前往西寧,再徒步行軍下到古芝。當地百姓秘密地引導整個師部隊進入村莊。身處敵陣心臟地帶,當地民眾卻依然如常生活。夜裡,機動電影隊在樹蔭下唱歌表演。中午,戰士們在芒果樹間掛起吊床搖曳而眠。

上級命令第320師攻打同維基地,那是通往西貢首都的門戶。

戰役前夜,女房東小聲對我說:這是共產黨第九次攻打同維了。前幾年每次開打幾小時就被奪回,最久也不過撐過一天一夜。共產黨在那兒犧牲太多了。這一帶的百姓早已麻木,每次一打起仗就跑去撿屍體財物。

4月28日早上7點。排級以上幹部到營部集合,在沙盤上接收任務。沙盤以泥土製成,設於田野中央的空地。整個同維基地被縮小至約30公尺,包括:外圈120個碉堡,17道鐵絲網,兩個主要出入口,四條交通壕圍繞,中間鋪有柏油道路供敵人通行倉庫,還有四個居民區彼此相距900公尺,敵軍師部就駐守在正中央。

第二連為主攻部隊,負責打開突破口。

我們排為主攻排,任務是將旗幟插上敵軍師部的地堡頂端。

今天我決定穿上新衣服。我有預感,這可能是最後一場戰鬥。

最後一場戰鬥?我會死?還是這戰役結束就能回家?誰知道呢。我只覺得前方將是一場慘烈激戰。

詩人蘇友曾到西原見戰士們衣衫襤褸、污穢不堪,回北方後建議後勤部給每位戰士配一套軍服。這事我們是從報紙上知道的。說是一套,但實際上每人只分到一件。

有人有上衣,沒褲子。我拿到的是一件上衣。我稱它為「詩人之衣」。

今天我穿著「詩人之衣」,踏上這場決戰。

4月28日下午三點,出擊命令下達。

天空仿佛即將降下暴雨,黑壓壓的全是炮火煙霧。三小時後,我軍火箭彷彿火炬般直衝敵營。敵機投下照明彈與炸彈,攻擊我軍開火方向。敵遠程火炮反擊我軍剛發射的區域。雙方像是在比誰的炮火更猛、誰的膽子更大。

晚上九點,我們潛入敵軍基地附近的橡膠林,被安排伏擊在教堂花園角落。穿過教堂便是14號公路,距第一道鐵絲網15公尺,距第二連約200公尺。

完成伏擊部署大約在凌晨兩點。我與連長雄哥、政委潤哥一起巡視各排。進入民宅後方花園時,沒有一聲狗吠。安靜得異常。

凌晨三點整,第二連點火。第一道鐵絲網的爆破聲響起,接著第二道、第三道。

幾分鐘後,敵人已確定我軍進攻方向。從基地內開火還擊。第四連火力支援第二連,但無甚效果。第二連因火力中斷好一陣子才再次開炸。

我告訴戰士們緊盯兩條道路,一旦敵人出現就立即開火。我一邊指揮排內弟兄,一邊側耳聽第二連方向的動靜。

17道圍牆。到了早上九點,第二連才突破到第九道。以我的經驗看來,他們傷亡慘重。

近十一點,營政委坎哥與第一連副連長伍哥朝我方陣地走來。此時坎哥本該留在營部,怎麼會出現在我這裡?

坎哥示意我靠近商討。他說:現在由同志你帶隊,聯結爆破裝置,打開側翼通道以牽制敵軍,讓第二連能順利行動。

我接受任務,指派每排至少組成三條爆破繩,一條長度必須達1.5米。完成後由我負責打開第一道鐵絲網。

九條爆破線要炸開九道防線。火力部隊要貼近掩護,當戰士抱炸藥前進時,必須壓制敵火。

正當我製作爆破線時,伍哥與第一連指揮部下令我們停止爆破,立即越過道路,佔領基地東側道路。敵軍已在基地內升起白旗。

我高喊弟兄們前進。離開原地剛走50米,敵軍從新奇教堂屋頂用機槍射擊阻斷我軍行動。我命火箭兵嘉用B41壓制敵火。轟然巨響,敵火熄滅,教堂的水泥碎片灑落在我們頭上。敵人火力太強,即使只剩50米,我軍仍無法接近道路。

我搶過嘉的B41火箭炮。

左肩貼牆,右肩扛著火箭炮,我用瞄準尺對準,屏氣,引爆。火箭彈直擊敵軍機槍火力點,升起一柱白煙。

我再喊前進。一輛裝甲車從敵營飛馳而出。戰士們朝其後方掃射。

為什麼不開火?嘉說:我們後面是己方部隊,前面是自己排的弟兄。

我心想,中計了。敵人升白旗是假,仍不停開火。我們只得全員翻身越過道路。

新奇街與同維基地被濃煙籠罩,炮火震天。

亂葬崗中有一條小道,從營門延伸向東。敵軍欲從此逃脫,被我軍截擊。我們從中午堅守至傍晚,一路戰鬥推進至主營門。

亂葬崗。每座墳墓成了雙方掩體。

在我槍口前,出現一名年輕女子,短髮,一手拿帽、一手拎包。她高聲呼喊某人名字。我猜她在找愛人或丈夫,就在敵營附近。不知她正置身於交火中。

「躺下!馬上離開這裡!」我大聲喊。

一名士兵跑來報告:「報告長官,我們又俘虜了60名敵軍,怎麼處理?」

繩子都不夠用了。我命令:「繳械、脫鞋、脫衣服,推進彈坑裡,派兩人看守!」

我發現一小隊敵人躲在墓後,命令B40射手開火。連發三彈皆落空,因敵人藏身處有墳包掩護。

我命人掩護,我繞左側接近。一穿過草叢便被發現,敵軍AR15一槍命中我胸口,我立刻倒地。

意識尚清,我知道自己未死,便重新振作。怎麼辦?匍匐回去沒力,若再中彈就完了。我調整姿勢開槍,見幾隻腳露出,敵人注意我方掩護部隊。

我屏息開槍,連開兩發,一人中彈倒地。我喊:「投降則生,頑抗則死!」再連開兩槍:「丟掉武器則生,頑抗則死!」再開兩槍。

三顆腦袋冒出,六隻手舉起,一個接一個站起來。

我胸口鮮血湧流至後腰。若此時站起,被敵察覺負傷,必遭補槍。

我坐著開槍,手勢示意三人靠近。

「舉起手來,放下武器,過來!」

「脫鞋,脫衣服!」

我朝地面開兩槍警告。

他們說:「我們有一人受傷。」

我說:「一人為他包紮,一人過來!」

一人走到我面前。

「坐下!舉起雙手!」我左手持槍頂其腋下,右手扶其肩站起。他們這才知道我受傷。

我清楚聽見自己的血在背後淌個不停。新穿的衣服連汗都沒浸過,血水未能吸進布料,直接沿背流成一塊凝在腰間。

「背我去那邊。」

那壯漢背我,兩人互扶走在後頭。四人走在子彈橫飛中。敵我激烈交火,背我者渾身發抖。

「快走,別管它!」我強撐氣力。

我漸漸虛脫,眼前發黑仍故作鎮定。

再走20米我喘不過氣。「停一下。」我氣若游絲。他停下,我滑下背,換個姿勢較能呼吸。

我左臂摟肩、腹靠其背、槍仍在腋下。右手隨時準備射擊。這把捷克製折柄AK剛從敵軍手中奪來,又輕又準。

二十分鐘後,他們將我送回交火戰線。

下午,我到亂葬崗交戰時,不忘觀察四周。這是偵察兵的直覺。約三百米處有間瓜農的小棚子。

我讓權哥派人去拆下一根棍子作擔架,並叫香哥帶兩個最壯的俘虜來抬我。

我把任務交給權哥與三位排長:平、想、雄,叮囑他們設法與連部、營部取得聯絡。連指揮部在新奇街迷路,原本只有我一人指揮四個排。

我想自己撐不過去了。想多說幾句,卻昏迷過去。

意識時斷時續,聽見香哥呵斥俘虜,因為他們喊腳痛肩痛。兩名俘虜正抬我,已被剝光鞋,只穿內衣褲。

我再次昏過去了。


天色已暗。我又醒來了。發現自己正躺在一個市場裡。周圍是許多平民。

一位婦女慌張地說道:「各位戰士,請幫他輸血吧,他失血過多,太虛弱了。」

她拿來一瓶乾血,將血瓶綁在市場的祠堂柱子上。人群散開,讓她有空間為我輸血。

一位開機動車的老伯來了:「戰士們,我來幫一手。需要送傷兵去醫院的話,我可以載去。」

護士覺得這主意合理,叫老伯用車載我去團級軍醫所。

他們連同擔架和正在輸的血瓶一起把我抬上車。

到了地方後,他們把我抬下,放在剛撤離的火力單位的一個120毫米炮坑邊上。

陪我來的護士對兩名運輸兵說:「你們快點把這位同志送到師級的醫療線。」

兩人抬著我奔跑。我時而清醒,時而昏迷。忽然一陣劇烈的顛簸刺痛我全身。「慢一點,我快喘不過氣了,太痛了,各位,太痛了。」我呻吟著,但聲音斷斷續續。

其中一人大聲說:「別呻吟了,我們已經在盡力了!」

忽然,我被扔在田中。夜雨潑灑,天色漆黑。他們跑太快,跌倒了。我又痛又冷。一人說:「弟兄,抱歉,地太滑,看不清。你不會死的,我們走捷徑,會救活你的。」

他們又開始慢慢走,摸索著前進。前面那人踩到一個背包,他們停下來,在裡面找到一塊塑膠布,蓋在我身上。身體立刻暖了些。

前方那人歡呼:「有西瓜,太好了,可以吃一點了!」

捷徑穿過西瓜田。他們又一次把擔架啪地丟在田裡。我說:「麻煩你們把帽子放在我頭下,這樣呼吸比較順。現在平躺著,我沒法呼吸。」他們照做了,把帽子墊在我脖子下,然後去找西瓜吃。多久我不知道。

—「完了,不知道傷兵在哪裡了。」

—「你往那邊找,我往這邊找。記得腳貼著地走,免得踏過擔架卻沒看到。」

我聽著他們交談,卻發不出聲。我就在這裡。如果他們找不到我,今晚我肯定會死在這田裡。

—「喂,傷兵,你在哪裡?呻吟大聲一點!」

—「現在叫他呻吟大聲點,然後耳貼地聽才能辨方向。」

—「喂,傷兵,怎麼該呻吟的時候你不呻吟?你呻吟大聲點,讓我知道你在哪個角落。」

我根本呻吟不出來,根本沒力氣了。

—「喂,傷兵,如果你還沒死,請你拼命呻吟一聲,讓我們知道你還活著。」

我開始能呻吟了。我呻吟,拼盡全力呻吟。

—「這邊,這邊!」

—「哪邊?」

—「就是這邊!」

—「這邊是哪邊?」

—「繼續呻吟,傷兵!」

我又昏過去了。

我聽到兩下啪的一聲耳邊巴掌,把我打醒。我正躺在手術台上。那是一塊竹席,上面鋪了塑膠布,用六根竹竿支起來。這是個流動野戰醫院。

—「他的衣服呢?」

—「不知道。」

—「給他拿條短褲來。」

一位軍醫給我穿上短褲。我看到煤油燈亮著。兩位運輸兵是在晚上十點把我抬到這裡的。

然後是另一對護士把我抬到半地穴式的手術室,裡面掛著一盞風燈。

稻草墊上,傷兵們肩並肩躺著,一片寂靜。

所有人都安靜。我也安靜,看著外頭天已微亮。

護士讓我坐在兩名傷兵中間。一人剛剛斷氣。他們把那人抬走,我就坐在他的空位上。

我腦子清醒了。疼得沒法躺下,躺著就喘不過氣。只能坐著,雙手抱膝。困了,就那樣睡著。

這時是4月30日早上8點。

我身上陣陣發冷。

我看著旁邊那位兄弟。自我進來,他就一直熟睡。

我冷得發抖,看他枕著一個戰鬥包。那是士兵出征時隨身攜帶的裝備袋。包鼓鼓的,我猜裡面有衣服或什麼可以蓋的東西。而我現在,只有一條短褲。

我搖他起來想借用。搖了好久,我摸到他肩膀,怎麼那麼冷?我往下摸他的手、腳,冰冷。他早就死了,身體已僵硬。

我輕聲對他說:「兄弟,我們都是軍人。你已經走了,如果你有長衣長褲,能不能讓我借一套?我太冷了。拜託你。」說完,我扶起他的頭,打開那包。

裡面裝滿了戰鬥裝備。我只拿了長衣長褲,包好後重新墊回他頭下,就像剛才那樣。

一位軍醫經過,我告訴他這裡有人去世了。

擔架兵把他抬走了,我的空間也寬一點了。

十分鐘後,護士又抬來一位傷兵放在原位。他們抬進一個,抬出兩具遺體。一直如此。這個師級軍醫單位有數十個這樣的臨時手術棚。

那位兄弟走了。我淚流滿面。痛惜我的戰友。孤獨而寒冷地死去。他叫什麼?哪裡人?親人是誰?昨晚如果我運氣不好,也會像他一樣。


三個月後,我康復回到部隊,護士告訴我,當時為我輸血的那位婦女是一位醫生,在新葵(Tân Qui),霍門縣(Hóc Môn)開設私人診所。她與當地民眾自願一起出來搶救傷兵。

一個星期天下午,我請那位護士帶我去她家,想親自向救了我一命的人致謝。

我們到的時候,正好她牽著腳踏車要出門。護士介紹了我,並簡單說明了我們來的原因。

她的神情與當時急救時的慌張樣子完全不同,此刻她的臉上顯得十分冷淡與疏離。兩個人一下子都變得有些尷尬。她說:「你們戰士就在這等,或者出去走走再回來,我要上西貢辦點事,很快就回來。」

我們在她家旁邊的茶水攤等了一個小時,她始終沒回來。我們只好回部隊。

下個星期天我又去了。大門緊閉。我照樣去上次的茶水攤坐下。聊了一會兒,賣水的婦人告訴我,她已經在兩天前走偷渡路線離開了。她的丈夫是1968年陣亡的越南共和國上尉,這些年她獨自撫養孩子長大。


23.轉送醫院治療,南越蘭醫師一家照顧,蘭醫師丈夫進再教育營


我被轉送到175軍醫院外科治療。負責為我建立病歷並治療的是蘭醫生。

十天過去,我仍然呼吸困難,體力極度衰弱。

每天早上,病患按標準配發一塊麵包和一盒牛奶。那天早上我虛弱得吃不下。蘭醫生來打針。平時都是護士打針,不知為什麼這天早上卻是他親自來。針剛拔出我就昏迷過去,不省人事。

醒來後,我聽見隔壁病床的病患講述發生在我身上的事:打完針後,我既沒把褲子拉上,也沒轉身,腳也沒落地。他走過來搖我提醒,才發現我已昏迷。他趕緊叫正在隔壁病房巡診的醫生。病房間以玻璃隔開,從這邊可以清楚看到那邊。醫生們趕來,把我翻過身、量血壓、掀開眼皮檢查瞳孔。不清楚是藥物過敏、過量,還是其他原因,只知道後來蘭醫生又為我注射了一劑藥,然後觀察直到我醒來。

從那天起,我變成了特殊病患,獲得蘭醫生特別關照。他每天三次為我打針。我趴著,他一下子就從我肺裡抽出一管充滿血膿的液體。我得的是肺動脈阻塞,這正是導致呼吸困難的原因。

在醫院的將近三個月裡,我所接受的注射與服用的藥物多到數不清。每天三針。到第三個月時才減為每天兩針。

蘭醫生每天來探視,鼓勵我。有時不是他的值班日,他也會抽空來坐幾分鐘,聊上幾句。我能感受到他對我的真誠關懷。

我開始能坐起來,慢慢練習走路。某天傍晚吃完飯,蘭醫生邀我去他家走走,換個心情。他的家就在醫院園區內。

我答應了。他一步步扶我走,一手拄拐杖,一手靠著他,就像一個學步的孩子。

他的家整潔溫馨。他的妻子三聲音柔和,說話溫婉。她泡了茶,端出一盤糖果餅乾。他們的孩子圍著我走來走去,帶著好奇與親切的目光看著我。她自我介紹說自己是竹篙醫院(Chợ Rẫy)護理人員。那晚的氣氛溫馨融洽,讓我不再對第一次踏進西貢人家感到拘謹。

後來他又牽我去幾次,之後我便自己拄拐杖過去。住院久了會悶,我就起身去找孩子們玩。他們問了我許多小朋友常會好奇的問題,有些我答不上,就笑笑帶過。

有一次她端出一杯冰淇淋請我。我舀了一勺,冰淇淋真好吃。我正準備再舀一勺,突然警覺——如果這裡面下了毒怎麼辦?我想起在綏和時首長的提醒。現在局勢混亂,敵我難辨。我內心動搖,明明想敞開心胸、分享心情,但那一刻我靜靜地放下湯匙,對她說:「我吃這些就夠了。」那第一次吃到的冰淇淋冰涼滋味至今仍留在舌尖。

大姐——他們的姊姊第一次見面就像老朋友般與我交談,可能他們事先向她提過我。

她問我北方是怎麼發展經濟的。他們是1954年自北方南遷的。我回答我們種田,組成合作社。她認真地聽著。雖然我身體孱弱,但我內心仍以解放軍身分自豪。我清楚地回答她關於北方鄉親的疑問。

「北方怎麼幹活?」這句話,後來我又從許多西貢人嘴裡聽到。有個女人聽我說我們鄉下是合作社運作方式時,笑了出來:

「小弟啊,這樣做人腦子會越來越笨吧?」我一聽臉紅了,覺得被侮辱。我平靜回應:「那是看個人怎麼想,笨不笨取決於個人是否肯學習成長。」

她繼續說:「你就是保守。在我看來,這樣的經濟方式根本無法自由發展。要等生產隊長敲鑼,農民才拿鋤頭、牽牛出去耕田。沒敲鑼就坐在家裡等。除了種田,不知道拓展其他經濟,怎麼發展?」

我忍住。自己是軍人,他們是老百姓,軍民如魚水,該謹言慎行。無論如何都不能引起敵意。

後來有指令:幹部家屬不得住在醫院區域。蘭醫生一家要搬出,他說要帶我一起去看預計購買的新房。我說:「如果你信我、尊重我那就去吧,其實我從鄉下到山裡打仗,哪懂買房這事?」

他妻子勸我陪他去,她說有我一起她才安心。

真的嗎?有我她才安心?我感受到她話裡的客氣。我正好心情鬱悶,能外出走走也好,順便參觀西貢。

那是一棟兩層樓的華麗洋房。我一走進去便感到眼花撩亂。這是客廳,那是臥室,這是廚房,那是衛浴。我跟著他走。還記得在西原上政治課時,老師教我們西貢因地狹人稠才蓋高樓,不像北方那樣寬敞。他們的富裕外表是美帝投資造成的。想到這些提醒,我很快就恢復平靜。他說這房子要多少兩黃金,問我意見。我淡定回答:「這房子不錯,離醫院近,對你上班方便。」

這幾天蘭醫生沉默、憂鬱。他來病床邊坐下,我們一起在醫院園區散步。

— 你聽過市政廣播連續播放的消息嗎?

— 我有聽。

— 你是軍官,有上尉軍階,應該服從命令。你應該去區公所登記。他們要你填什麼表就填,要你登記什麼就照做。你是軍醫,為軍人治病,沒什麼可怕的。去接受改造學習幾年就可以回來了。

我出院那天,三送來一包糖果和香菸當作告別禮物。

我說:「感謝你們一家人。我只收一包糖一包菸,帶回部隊送給兄弟們。」

「其餘的我不能收。我們當兵的不能拿這些東西,帶回去會被說成是打仗時搶來的,那就是戰利品。戰利品是用戰友的鮮血換來的,我們認為拿這些東西就是對不起戰友。如果妳有心,等我退伍了,妳要給多少我都會收。」

我回到西原後收到她的來信,詢問我的傷勢是否已癒,是否已回北方。她說孩子們和大姐經常提起我,盼望早日再見。信的最後,她告訴我蘭醫生已聽從我建議,到區公所登記,目前正在接受改造學習。

我還沒來得及回信,又過了十天,她再來一封信,寫了蘭醫生現在被關的地點,希望我能寫信去鼓勵他。

接著又是一封。我認真思索每句話,希望能強烈鼓勵她。她很快回信,裡面我感受到她有一種難以言說的急切。

我只是一個兵,我只能做到這些。我不希望她難過,但我也不知道該說什麼,感到羞怯。她寄信來,我卻沉默不語。

最後一封信是1975年12月8日寫的:


「他自6月23日被送去改造學習,到現在將近半年還沒回來。我一邊工作一邊照顧孩子們,心裡掛念著他的健康。大姐和我都消瘦了,女人總是多愁善感。以前一家團聚慣了,現在分離,無法見面,我日夜憂慮,吃不好睡不好。雖然如此,我知道革命政府寬大,給人改過自新的機會,也照顧飲食起居,這讓我也有信心。

我家有一位親叔叔,是共產黨員,也是教育幹部,自1945年以來一直在南方革命根據地工作。他曾在兩次被捕關押於昆島時獲得你們軍隊的協助。叔叔也幫我寫了保證書,隨著我提交的申請表,經地方政府核實。不知道申請是否會被審核,因為已經兩個月沒收到他的來信。你能不能寫封信去問候他?如果你寫信,那會是他極大的安慰。

孩子們現在都去上學了,而且成績也很好。他們很想念你,也祝福你能早日與家人團聚,就像他們盼望父親蘭醫生回來一樣。

我祈禱上天,願我們全家與你能在一次溫馨的家庭聚餐中團聚。」

三 敬上



24.南越軍高三女的深情告白,投奔法國,孤獨返鄉種田讀信,救孕婦收孤兒


住院的日子疲憊又無聊。幸好認識了蘭醫生一家,偶爾有人來聊聊天,心情也稍微輕鬆一點。但去得多了,我也覺得不好意思。


我住的病房在二樓。每天都拄著拐杖從二樓下到一樓,再從一樓爬回二樓。身體好一點的日子,還會慢慢走到醫院門口,看著街道。


街上熱鬧喧囂,和我孤單迷茫的心情形成強烈對比。這些年我出生入死,哪怕受傷,一條腿長一條腿短,也還是衝上戰場。如今卻虛弱不堪。像現在這種身體狀況,不知道還能做什麼。


住院已經一個月,部隊竟然還不知道。後來我才知道部隊已經把我列為陣亡將士名單。幸好還沒把陣亡通知書寄回老家。4月29日傍晚,當連隊護士和指揮部看到我被送上老百姓的車去急救時,臉色和身體狀況都不好,他們以為我撐不過去了。我回部隊時,軍裝已被人拿走,隨身背了四年多、藏在背包底部的筆記本也丟了。


同病房有個叫樂的北河人。他傷好了,但還沒出院。每天都出去玩,早出晚歸。出去時兩手空空,回來卻總帶著一袋禮物。他說他在南方有不少北方的親戚。認識一個,他們就介紹他認識另一個。他一家家地拜訪。我對禮物不感興趣,但看他進進出出那麼開心,心裡也羨慕。


我說:


兄弟,讓我跟你一起去吧。


他說:


去幹嘛?


在病房悶得慌。


嗯,醫院門口有位老鄉。


他帶我過馬路去對面。一家小店,兩人走進去坐下。店主是個慈祥和善的老太太。他介紹我說是病房裡的病友。我們坐了一會兒,他對老太太小聲說了什麼,轉頭跟我說讓我在這兒等,他中午回來。


這家店其實只是屋檐下擺了幾張桌椅,桌上賣些糖果餅乾,還有一些水果,比如芒果、橄欖之類。


老太太寒暄了幾句。


我靜靜地坐著,看著街道。法國人撤走後,美國人得了不少好處。他們繼續投資,把這座城市建得越來越現代化,企圖收買民心。城市是越來越美了,但人心卻分裂了。真是悲哀又可惜。我陷入沉思。


樂哥還沒回來,我坐了很久,開始焦躁。想回去,但又不敢一個人過馬路。腿發抖,車太多,我不敢。


這時,一個女孩從屋裡探出頭朝我揮手:


哥哥,進來坐嘛。


我回頭,她對我微笑示好。


老太太說是她外孫女。


進來陪我聊聊嘛。


女孩走出來拉著我進屋,不給我猶豫的機會。


她讀高三。


從兩歲起就和外婆一起生活。媽媽帶著弟妹住在峴港。爸爸是共和軍的軍官。


哥哥留下來和我還有外婆一起吃午飯吧,我剛煮好飯。


我不吃,我在醫院有飯票。你幫我安排一下,送我過馬路回去。


我不敢送。樂哥交代過讓你等他,要是我自己送你回去會被罵的。


我只好留下來等樂哥。斷斷續續地回答她的問題。女孩第一次見我就產生了好感,但我實在太累,眼花頭暈,肚子也餓。


下午一點半樂哥才回來。女孩端出飯菜。樂哥叫我趕緊吃飯,好回去。


我小聲問他:「會不會下毒啊?」


他說:「別胡說。老太太是我的老鄉,她把我當成精神上的兒子。我在這裡吃過好幾頓了。」


這是我第一次出院門。女孩這麼溫柔,我告誡自己不能大意。但肚子實在太餓了,我把碗遞給樂哥,讓他幫我盛飯。


第二天我又跟著樂哥到老太太和孫女的店。樂哥走了,我一個人留下。


女孩問我:


哥哥你家在哪?怎麼去當兵的?什麼時候回家看媽媽?


我一一回答。詳細、誠懇,直到她不再好奇為止。


哥哥喝點水吧?


要不要削芒果給你吃?


我搖搖頭。雖然沒那麼戒備了,但身體還是很虛,什麼都不想吃。體重從53公斤瘦到只剩36公斤。手腳青筋暴露,拄著拐杖,胸口纏著繃帶,說話也很慢。


哥哥去床上躺一會兒休息吧。


我躺在床上,只覺得自己像個虛弱的孩子。


要不要我唸書給你聽?


女孩拿出一本小說開始唸。我迷迷糊糊地躺著,她搬椅子坐近我。她唸著,我不知道內容是什麼,只聽著那輕柔的西貢女聲。


我這樣唸你聽得懂嗎?


懂。能不能再慢一點?


哥哥,樂哥回來了。明天你再出來,我再唸給你聽。


隔天剛好下雨我沒去。晚上樂哥出去玩回來,給我一張紙條:「你有信。」


那是張摺疊成信封樣子的紙,背面寫了一段話:


「親愛的哥哥!這幾天跟你聊天我覺得很開心。今天你沒來,我很想你。希望你早日康復,常常出來聊天,讓我了解北方是什麼樣子,社會主義是什麼樣子。」


我已經不那麼虛弱,能比幾天前多說幾句。女孩坐在我身邊,像個乖學生一樣認真聽。


什麼是社會主義?社會主義是一個由一個黨領導的社會。北方的社會主義和世界上其他社會主義國家基本一樣。現在世界上有一百個社會主義國家,都是大國,比如蘇聯、中國。


那北方的社會主義是怎麼運作的?


社會主義社會有鄉、區、組等不同稱呼的組織,但本質都是協助政府穩定政權。北方的社會主義是從生產隊開始,然後成立生產合作社。一個生產隊可以組成一個合作社,裡面又細分為畜牧合作社、農業合作社、工業合作社。


工業合作社做什麼?


我老家還沒有工業合作社。但別的地方已經有了。


那像我們這種年紀的,將來會做什麼?能做什麼?



如果你想,我也可以幫你翻譯下一段。


以下是原文的中文翻譯:


像我們這個年紀,高中畢業後就可以根據能力和選擇報考中專、大專或大學。考上哪裡就去哪裡讀。畢業後就從事自己所學的專業工作。


那現在我該做什麼?


妳要爭取加入共產主義青年團。


共產主義青年團是什麼?


共產主義青年團就像這裡叫的共和青年團一樣,是模範的先鋒力量。比如我們這個街坊有100戶人家,就會成立兩個青年分團,每個分團有五十人,就要選出一位最聰明、最機靈、最能幹的人來當分團長。團員的任務是承擔困難的工作,看看街坊需要什麼幫忙就去幫。


那我個人需要做什麼、能做什麼?


妳要當先鋒,做模範。要自願承擔困難的工作,自願肩負起社會當前所需要的事情。


她不再問了,沉思一會兒,然後說:「我繼續讀書給你聽吧。」


她已經收到了我寫的信,說我的字寫得很小、很難看清。她看著我的字跡說我命苦。她說我的信也不太像文人寫的。


第二天她約我一起去街上散步。


「跟我走這邊一點。」她主動挽起我的手。


在Gò Vấp三岔口有一家照相館,她拉我進去看。她指著牆上掛著的一對對情侶照片。


「這張好看嗎?」

「好看。」

又指著另一張:「這張好看嗎?」

「好看。」

再問一次:「好看嗎?」

「好看。」


我們離開了照相館。


「陪我去我朋友家借本書。」

她又挽起我的手。她說現在只有這位女生朋友最親。


那是一棟兩層樓的房子,滿院子都是綠樹。


「你在這裡等我一下。」


她走上外邊的樓梯,然後從視線中消失。我不知道她去了哪裡。


我坐在走廊的椅子上等候。這應該是間豪華客廳的前廳。客廳的門關著,靜悄悄的。


天空突然下起了傾盆大雨。接著,外面巷子傳來一陣近距離的槍聲。作為一名士兵的本能讓我全身一震。我身上沒帶武器,身體虛弱,此刻若有人衝出來掐我脖子,我也沒辦法反抗。我太不小心了,跟著這女孩來到這裡太掉以輕心。這下恐怕要死得不明不白了。我覺得自己實在太傻了。


她淋著雨跑回來,頭髮濕透。


她拉我走到屋簷底下,緊緊地抱住我。


「你怕嗎?」

「我怕。」


明天我要出院了,部隊已經知道我還活著。


我回到部隊,繼續接受任務,前往西原與Fulro作戰。


@@被壓制民族鬥爭統一戰線(越南語:Mặt-trận Thống-nhất Đấu-tranh của các Sắc-tộc Bị Áp-bức、法語:Front Uni de Lutte des Races Opprimées,簡稱FULRO),是越南歷史上曾經存在的一個少數民族組織。這個組織最初成立的目標是實現高地民族的自治,只是一個政治民族主義運動。1969年以後演變成眾多互不隸屬的反政府遊擊隊,反對一切形式的越南人統治。


外婆說:「孩子你走了記得回來看看,彼此熟悉了,如今分離真令人傷感。」


她問我什麼時候再回來。


我說我不知道。


我還會在西貢待一個月才前往西原。那地點距離醫院十五公里。我想去看她,卻沒辦法。因為我們每週只有星期天能外出一小時。但這不是主要原因,最主要的是我身上一毛錢也沒有。沒有錢,我怎麼敢去探望一個女孩子?


我到了西原,想寫信給她,但不知道怎麼寫。我的字不好看,也不會表達。我感到很羞愧。


1975年12月底,我寫信拜託三姐Sâm幫我打聽她的消息。三姐回信告訴我,這女孩已經志願去西寧教書了。她任教的地方是與柬埔寨接壤的一個縣。


聽到消息,我內心揪痛。每天都祈禱她平安。想起我們曾經的對話,心裡久久不能平靜。


1976年底,我獲准返鄉。


我離開家上戰場已經五年。


家裡荒涼,屋子空蕩破敗。妹妹去北方學手藝,只剩下年老體弱的母親獨自生活。看到這樣的家,我怎能再拋下母親離開?我去部隊辦理退伍手續,回到家砍柴鋤草、修整庭院,與母親相依為命、勉強度日。


這些信是我現在才讀的。她寄到我母親在鄉下的住址。


夜深,母親已經安然入睡,她的兒子平安回來。我一封封打開信,淚水潸然而下。我年輕的歲月,是誰奪走了我的青春?


西貢 1975年7月29日


你走已經快兩週了,我還沒有收到你的任何信。


我寫信給你還得託你母親的地址,真的讓我很為難。你覺得我這樣的處境如何?


你是開心還是難過?不管怎樣,請再來看看我吧。


我在這裡很寂寞。朋友只有一個閨密。家人常被人詆毀。經濟拮据。外婆越來越老邁。


我鬱悶得甚至想出家,以擺脫一切煩惱。我相信佛會在我苦難時救我。


當我說想出家的時候,你曾勸我為家庭、為社會不要放棄。拋下人世去出家不是好事。我非常珍惜你的話。


西貢 1975年8月20日


為什麼爸媽要丟下我?是因為太窮無法養我?還是別的原因?我有父母,卻感受不到他們的愛。


這是我寫給你的第二封信。前一封你收到了嗎?為什麼沒回?我好擔心你,請快回信給我。


你鄉下有年老的母親,真幸福,有媽媽疼你。她在你離家當兵時為你哭泣。現在你已回到媽媽身邊,回到貧困但充滿親情的家鄉。


我這城裡女孩不懂農事。你的家庭會接受我這樣的人嗎?


西貢 1975年10月15日


這是我寫給你的第六封信了。


你已經了解我的家庭情況。那些閒言閒語我不怕。我沒做錯事,怕什麼?


認識我,你會擔心影響自己的名聲嗎?朋友會怎麼看你?你又怎麼回答他們?


為什麼我們會認識?是因為戰爭吧?戰爭帶給你我的家鄉無盡傷痛。我希望將來南北不再有血流成河的局面。


我心痛不已。


我知道你是個好人,一個有道德的人,不會拿別人的痛苦當快樂。


家鄉若能平靜,你也會少些艱難。你母親不再與兒子分離。你鄉親的苦日子也會結束。


你曾勸我:未來屬於年輕人。但我現在感到生命無趣,只想脫離社會,遠離殘酷的人世。


西貢 1975年10月20日


我有件好消息要告訴你,我今天早上加入了青年團。我想為社會分擔一點責任。


這次收信後,請務必馬上回信給我。

😭😭😭😭

一位孕婦在河邊爬行。她肚子很大。「那位姊姊怎麼了?」她迅速行動,從堤岸滾落到河灘。


他跑回家拿出背包裡的防水布鋪開。她在布上躺開。


他砍了根竹子做成擔架,找人一起把母子送去醫療站。他把沾滿血與羊水的布帶到河邊清洗。為什麼偏偏在他回來的早晨發生這種事?


沒人知道這女人從哪來。兩天後她離開了,孩子留下。一名士兵收養了這孩子。在Ngàn Sâu河邊,孩子與村民一起長大。


1982年,他回到西貢。他到Gò Vấp第五區尋找那間舊房。舊房還在,沒變化。外婆去世了。她去西寧教了一年書,因邊境戰爭被迫回來。到1979年,有人擔保她去了法國。


現在與他談話的是她的母親。她父親仍在西寧的改造營。


他詢問能否聯絡上她。母親說:「既然已經不再來往,就算了吧。這裡的風俗就是這樣。」


他留在西貢一段時間想謀生,但並不容易,只能回去安心當農夫。Ngàn Sâu河邊,每年都有洪水來襲。



他什麼都不記得了。不再記得這些信,這張臉、這雙眼。戰場、屍體、第七公路,一切都模糊了。


Phan Thúy Hà

NGƯỜI BÊN SÔNG NGÀN SÂU

1.

Tôi đang cưỡi trâu bên đường 15 thì nhìn thấy một loạt máy bay ra hoạt động.

Một quả bom thả xuống, hai quả bom... ba... bốn... năm quả bom thả xuống.

Lũ trẻ chúng tôi đã quen với hình ảnh bom rơi mỗi ngày. Chúng tôi chơi trò đếm máy bay. Đếm máy bay và đếm bom. Đứa nào cũng phân biệt được loại máy bay, bom và cách bay lượn như thế nào trước và sau khi cắt bom.

Năm máy bay hướng tới mục tiêu là cầu Đá Lậu. Cầu Đá Lậu nằm trên đường 15. Phá được cầu sẽ gây tắc đường, xe và người bị kẹt lại không tiến được vào Nam.

Máy bay thứ nhất thả bom. Chiếc thứ hai và thứ ba bị pháo phòng không của ta bắn tới tấp. Chiếc thứ tư lao về phía miền xuôi.

Chiếc thứ năm quay một vòng. Phi công bung dù. Máy bay rơi tự do xuống rừng Chúc A. Cột lửa khổng lồ bốc lên cùng tiếng nổ rầm trời. Một cái dù lơ lửng.

Huyện đội điều động một trung đội phối hợp với dân quân nông trường và dân quân các xã vây quanh khu rừng bắt phi công. Lực lượng phòng không của địch đến ứng cứu. Chúng thả bom bi vướng và phóng rocket không cho quân ta tiếp cận được mục tiêu.

Hai ngày hai đêm là cuộc chiến giữa mặt đất và trên cao. Phi công* đã bị bắt. Dân quân áp giải phi công về nhà một người dân.

Người ở các xã nườm nượp kéo nhau đi xem phi công Mỹ. Tôi chen lấn tìm được chỗ đứng xem gần nhất.

Phi công cao lớn quá mức tôi tưởng tượng. Da trắng. Mắt xanh. Tay chân đầy lông. Phi công không mặc quân phục. Quân phục và giày đã bị lột ra.

Phi công ngồi trên phản gỗ. Một chỗ ngồi của hắn chiếm gần hết tấm phản.

Phi công ra hiệu muốn uống nước, dân quân đưa nước cho uống.

Phi công ra hiệu muốn đi vệ sinh. Dân quân dẫn ra vườn, chỉ cho biết trước mặt là hố xí.

Bấy giờ quê tôi có hố xí hai ngăn tân tiến. Hố xí dầm bằng đất sét, mặt trên là những thanh gỗ nhẹ xếp lại.

Phi công đứng trước cửa nhà vệ sinh hồi lâu do dự. Thò được đầu thì người không vào được. Loay hoay mãi, một nữ dân quân phải hỗ trợ thì phi công mới chui được vào trong.

Dân quân cách xa một đoạn bồng súng canh gác. Người dân vẫn vòng trong vòng ngoài đứng chờ. Sao lâu vậy. Đi vệ sinh gì mà lâu vậy.

Hai chị dân quân tiến lại gần. Phi công đang mắc kẹt trong hố phân. Những tấm ván không trụ được sức nặng trên một tạ đã bị đổ sụp. Phi công rơi xuống. Người nhoe nhoét phân. Các chị dẫn phi công lại bên giếng bảo ngồi xuống.

Tôi đứng đó, há hốc mồm nhìn tên giặc Mỹ được các chị dân quân đang chuyền tay múc nước dội lên cho tắm. Tên giặc Mỹ lái máy bay thả bom xuống làng quê tôi là như thế này sao.

2.

Tôi đi chăn trâu với Hùng. Cánh tay trái của hắn bị tật từ lúc sinh ra. Sức mạnh dồn vào cánh tay phải. Vì thế tay phải hắn khỏe hơn mức bình thường.

Những buổi chiều hè hai đứa chặt cành lá ngụy trang vác lên trận địa pháo cho bộ đội. Giữa đường đi gặp máy bay sà xuống cắt bom bảo nhau nằm im. Đợi tiếng máy bay nghe xa mới bò dậy. Đến nơi thấy các chú đang bận bắn máy bay thì xuống hầm chờ. Lý do chờ là để được nhận thưởng mỗi đứa một cái cát tút.

Những cái cát tút bằng đồng vàng óng. Tôi biết đồng là quý giá. Ở nhà có cái mâm đồng mẹ chỉ đem ra dùng khi có khách quý.

Mỗi tuần xã lại tổ chức một buổi cổ động. Cát tút được mang ra sử dụng. Lũ trẻ tay giơ cao khẩu hiệu “Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam” miệng thổi cát tút rộn ràng náo nhiệt.

Tôi đã góp được ba mươi lăm cái cát tút. Hùng bàn với tôi khi nào chiến tranh kết thúc hai đứa sẽ chung nhau mở xưởng đúc đồng. Những cái cát tút này hứa hẹn sẽ làm ra tiền. Chúng tôi cất giấu toàn bộ số đồng có được vào dưới hầm kín. Nhà tôi có năm cái hầm. Giờ tôi chẳng còn nhớ đã cất giấu số cát tút đó ở hầm nào.

Hôm đó tôi dắt trâu ăn kẹ. Không biết là khu ruộng bên kia Hùng cũng vừa đuổi trâu ra đồng.

Trên cánh đồng vài ba người mang cuốc đi đào nhôm, đào sắt. Sau những trận bom người ta đào bom, mìn, đạn đem về bán hoặc nhờ thợ gò thành đồ dùng gia đình.

Hùng thả trâu, đi mượn cuốc của người đào nhôm gần đấy. Cuốc vung lên trúng vào đầu bom napalm chưa nổ.

Một tiếng nổ inh trời. Khói tỏa ra đen kịt. Tôi nhìn sang, Hùng đang như ngọn đuốc vàng cháy rừng rực phía đằng kia.

Tôi nhận ra Hùng vì một cánh tay thõng thượt quen thuộc.

- Hùng ơi nằm xuống. - Tôi hét lên.

Hùng có lẽ không còn nghe được gì nữa. Tôi đuổi theo.

Tôi kéo hắn tạt vào hố bom mới, ghì hắn xuống đất rồi tới tấp bốc đất bột phủ lên dập tắt lửa.

Lửa dập tắt. Tôi cõng hắn lên lưng và chạy.

Chạy được chừng mươi mét thì hắn giật vào vai tôi, ý như bảo dừng lại. Da mặt và da bụng Hùng dính vào áo tôi. Hắn đau quá không chịu được tư thế ghì sát này nữa.

Tôi thả hắn xuống. Dắt tay chạy về phía làng. Đàn ông khỏe mạnh đi ra chiến trường, đi lên xã lên huyện trực chiến, làng xóm chỉ có người già yếu và phụ nữ, trẻ con.

Người ta bảo tôi chặt lá chuối trải dưới đất cho Hùng nằm. Tôi đỡ Hùng nằm xuống, tiếp tục đi kiếm những gốc chuối thối theo lời chỉ bảo đắp lên người cho mát.

Mẹ tôi và mẹ Hùng đang cấy ngoài đồng nghe chuyện chạy theo sau vừa về tới nơi. Họ đưa Hùng đi bệnh viện.

Bệnh viện Huyện gần nhà bị đánh bom nay sơ tán về xã Hương Long cách bảy cây số. Tôi ở nhà không được đi. Mẹ tôi nghe người ta nói lại rằng nhìn thấy chấm lửa ngấm sâu vào xương.

Bệnh viện không có loại thuốc nào để dập tan lửa đang cháy sâu trong cơ thể. Một ngày một đêm sau Hùng chết.

Bấy giờ chúng tôi đang là những đứa học sinh lớp bốn.

3.

Đào hầm. Học lớp một đã phải đào hầm. Đào hầm ở nhà. Đào hầm ở lớp. Năm nào cũng đào hầm. Hầm cũ sập đào làm hầm mới. Lớp một đào hầm lớp bảy vẫn đào hầm.

Cô giáo phân công mỗi em phải đào bao nhiêu mét hầm. Em gái yếu sức, phần đào hầm phải nhờ anh trai.

Cha tôi mất năm 1964. Cha mất vì bệnh đau dạ dày. Căn bệnh quá nhiều người gặp những năm tháng đó. Vì đói, vì khổ, vì không có thuốc men. Anh trai đi bộ đội trong Quảng Bình. Chị gái học lớp bảy, em gái lớp bốn. Tôi mười tuổi thành người mạnh mẽ trong gia đình.

Hầm vẫn đào. Mà người vẫn chết. Tôi mệt mỏi. Tôi chán quá rồi. Tôi không muốn đào hầm nữa. Tôi ức chế mà không nói ra được.

Ngồi trên lưng trâu nhìn máy bay từ dưới Địa Lợi đang chuẩn bị cắt bom là tôi biết bom thả xuống làng mình. Lại có người chết rồi, không biết lần này nhà ai.

Tôi lùa trâu về. Chạy sang nhà đứa bạn cùng lớp. Bom đánh trúng nhà nó. Bộ đội đang bới đất tìm người. Một cái đầu hói nhô ra. Cái đầu của người cha. Người ta nhanh chóng lấy rổ úp trên đầu để đất bột không vùi. Tiếp tục bới tiếp tục cào. Thân thể ông kéo lên mềm nhũn và bầm tím như quả chuối. Trong hầm còn ba xác chết nữa. Đứa cháu và hai người hàng xóm.

Hai người con trai của người vừa chết đang đi chiến trường. Các anh không biết chuyện ở nhà.

Tiếng bom tắt. Mọi người quay về nhà mình xem còn gì không.

Một ngôi nhà đổ sập. Hàng tiếng đồng hồ sau người mẹ và đứa con nhỏ chui ra từ đống đổ nát. Hai cô chị đi chơi buổi trưa ở ngoài làng suýt nữa trúng bom. Họ là một gia đình may mắn.

Người lớn nói với nhau, bom tránh người chứ người sao tránh được bom. Tắt mặt trời biết là hôm nay mình còn sống. Một con bò bị bom đánh chết. Xẻ thịt ra, đói khổ là thế mà không ai thiết tha nữa. Ăn làm gì, ngày mai rồi mình cũng thế.

Ngày mai rồi mình cũng thế. Qua phút bi quan quẫn cực lại nhìn nhau vui cười. Đợi đêm xuống cùng nhau ra ruộng bẻ ngô. Trong bóng đêm phần ngô sót lại nhiều hơn ngô mang về nhà.

Cuộc sống sôi động về đêm. Nhưng rồi bom rơi không kể ngày đêm nữa. Lao đầu ra đồng bom thì kệ bom.

Cảnh sống thế này bao giờ thì chấm dứt? Tôi lại sốt ruột tôi lại không yên ở trong lòng. Bao giờ lớp học không phải trong hầm hào? Bao giờ trên trời không thấy máy bay sà sà bao giờ không còn tiếng rì rì báo hiệu loạt bom mới.

Chuyện đó có thể kết thúc không? Chiến tranh có thể kết thúc không?

Sau chuyện của Hùng tôi được đi dự hội nghị hai giỏi ở Hương Long. “Hai giỏi” là hai giỏi gì tôi không biết. Thầy giáo viết một trang giấy cho tôi mang đi đọc tại hội nghị. Đến nơi tôi gặp con bé ở xã bên cạnh tên là Nguyễn Thị Mão. Là học sinh sống sót trong trận bom mới xảy ra ở lớp 5A trường cấp hai Hương Phúc. 1

4.

Tôi xem bộ phim Nguyễn Văn Trỗi mười ba lần ở các rạp chiếu phim lưu động.

Thằng bé quần đùi áo trần lon ton phim chiếu ở đâu cũng có mặt. Lần xem nào tôi cũng xúc động mạnh. Tôi nhớ rõ từng cảnh phim, từng lời nói trong phim. Nhớ đến nỗi nhắc đến phim ảnh, cho đến tận bây giờ, vang lên trong đầu tôi là những hình ảnh trong phim Nguyễn Văn Trỗi.

Tôi thuộc lòng từng câu anh Trỗi nói. “Tôi chống đế quốc Mỹ đã xâm lược miền Nam Việt Nam gieo bao đau thương tang tóc cho đồng bào tôi”. “Kẻ có tội chính là đế quốc Mỹ. Tôi rất tiếc đã sớm sa vào tay giặc, không được tiếp tục chiến đấu để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, thực hiện lý tưởng của đời tôi”.

Đêm về tôi ngủ mơ thấy hình anh Trỗi trước họng súng mà vẫn hiên ngang nói lời chính trực. Không có hình ảnh nào đẹp hơn. Không có hình ảnh nào làm tôi rung động hơn thế. Anh là con người Việt Nam yêu nước hôm nay. Được chết như anh Trỗi tôi hạnh phúc biết bao. Tôi mơ tưởng và ngủ mê trong tiếng bom ngoài đường 15 vang rầm trời.

Hàng tuần cán bộ xã về từng đội măng non ở các xóm để gặp gỡ, trao đổi và tìm ra gương mặt tiêu biểu. Một chú giao cho tôi nhiệm vụ chủ nhiệm hợp tác xã măng non. Chủ nhiệm hợp tác xã măng non là chỉ huy các bạn quàng khăn đỏ tuổi dưới 15.

Mùa hè mỗi tuần hai đêm tôi đi sinh hoạt chính trị một lần. Tôi đã hiểu tại sao quê mình bom pháo nhiều đến thế, tại sao giặc Mỹ gây tội ác cho dân mình. Mỹ chiếm miền Nam và Mỹ sẽ tấn công ra miền Bắc. Việt Nam sẽ bị Mỹ nuốt chửng. Mỹ sẽ cai trị đất nước này. Người dân cả nước Việt Nam rồi sẽ chìm trong đêm trường tăm tối.

5.

Hai cái bát úp vào nhau. Đi học về nhìn thấy hai cái bát úp vào nhau là biết bữa nay mỗi đứa được ăn hai bát cơm. Gọi là hai bát cơm nhưng thực ra là hai phần khoai một phần cơm. Mẹ nấu chín xới cơm vào bát, phần mẹ vét xung quanh nồi. Mẹ ăn xong rồi ra đồng.

Nếu không có hai cái bát úp vào nhau thì sẽ là bữa ăn như mọi bận. Mẹ gọi các con vào bếp. Mỗi đứa cầm một cái bát lại nồi chan canh rau khoai.

Đói ăn không phải là chuyện gây ra đau khổ. Bấy giờ ai cũng chỉ nghĩ đến hòa bình. Mong ngày hòa bình đến thật nhanh. Hòa bình rồi ăn rau khoai rau má suốt đời cũng được.

Nhà tôi một gian hai hồi dành để gạo cho bộ đội. Gạo chất chồng gạo. Ngoài vườn là kho vũ khí. Mấy mẹ con nép lại phía góc nhà. Mình ở chật chội một chút cũng không sao, nhường các chú giường nằm để các chú nghỉ còn có sức đánh giặc.

Chú bộ đội nhìn mẹ con ăn canh rau mãi thấy thương. Chú nói nhỏ với mẹ lấy bớt vài bò gạo. Mẹ dứt khoát không. Chết đói cũng không lấy bớt đồ ăn của bộ đội.

Người dân ở đây ai cũng vậy. Đồ ăn thức uống đồ dùng của bộ đội để la liệt khắp các ngôi nhà các khu vườn mọi người bảo vệ. Bộ đội cho cũng không được lấy.

Một chú bộ đội thấy trong bếp mẹ chẳng có gì. Trước khi đi chú cố tình để quên một cái nồi. Mẹ chưa kịp thấy thì người hàng xóm đã phát hiện ra. Mẹ bị phê bình. Chiếc nồi phải chuyển ra ngoài trụ sở xã chờ một một đon vị khác tới dùng.

Thiếu ăn, đói ăn là chuyện của mỗi nhà. Trách nhiệm chung vẫn phải thực hiện. Mỗi người dân trên mười tám tuổi mỗi năm phải nộp mười cân thịt lợn hoi cho quốc phòng. Làm sao nuôi được mười cân thịt lợn hoi trong hoàn cảnh cảnh đêm ngày chạy bom thế này. Không có thịt lợn thì quy ra sáu mưoi cân thóc.

Dân có nghĩa vụ nuôi bộ đội. Dân không được to hào gì đến đồ ăn đồ dùng của bộ đội. Lấy của bộ đội dù một hạt muối cũng là Việt gian. Sau chiến tranh chục chiếc xe đạp phượng hoàng bị bỏ quên trên chạn một ngôi nhà dân. Gia đình không có xe đạp đi vẫn không dám đụng tới. Làng xã họp bàn.

Phải khẩn trương tìm đơn vị bộ đội nào đó đến mang đi.

6.

Tôi không biết mình sinh năm nào. Cô giáo hỏi mẹ, mẹ bảo không nhớ. Cô giáo viết trên giấy tờ tôi sinh năm 1957.

- Mày sinh năm bảy thì mới mười ba tuổi, ai cho đi bộ đội?

Những người bác trong xóm quát tôi.

Tôi viết lại lá đơn xin đi bộ đội, khai sinh năm 1951. Tôi nộp đơn cho xã đội trưởng. Chị gái đọc được lá đơn trên xã, về nhà hỏi, sao mày là em mà sinh trước cả tao.

Tôi được gọi đi khám sức khỏe. Tôi biết sức khỏe tôi xếp vào B2-. B2- là không đạt.

Tôi đi dép lốp, nói với anh y tá cân đo rằng cứ tính cho em cả dép. Trên đường đi nhặt hai cục đá cho vào hai túi quần. Mưu mẹo của những đứa trẻ mới lớn khao khát ra trận.

Vậy là tôi cân nặng gần được 44,5 kg, chiều cao 1.6m. Trúng tuyển vòng đầu.

Đến lúc có giấy gọi mẹ mới biết chuyện tôi đã làm đơn xin đi bộ đội. Con ơi, cha thì mất rồi, anh con đã bảy năm chưa về, giờ con mà đi thì ai chăn trâu ai đi cày cho mẹ. Con ở nhà thêm vài năm nữa, học xong rồi đi mẹ không cấm.

Bấy giờ tôi đang học lớp bảy. Tôi đi học muộn hơn các bạn cùng lứa tuổi.

Cả trường cấp hai chỉ mình tôi xin đi bộ đội.

Học sinh cấp hai chưa có nghĩa vụ phải vào chiến trường.

Ba cán bộ xã đến nhà tôi. Họ nói: Mày không được đi. Mày đi là sai quan điểm. Xã vẫn đang còn người đủ tiêu chuẩn đi bộ đội. Mày làm vậy trên họ kiểm điểm chúng tao.

Tôi nói: Các chú các bác hiểu lầm rồi. Các chú các bác được đọc nhiều nghe nhiều có nhiều tài liệu và báo chí vậy giải thích cho cháu “thiếu sinh quân” nghĩa là gì. Có phải là những em chưa đủ tuổi vẫn có thể đi vào quân đội làm những công việc như là liên lạc không? Cháu cứ đi tập luyện cho quen. Vài năm nữa cứng cáp chiến đấu trực tiếp là vừa.

Một người nói: Mày đã nói vậy thì bọn tao chịu rồi.

Không ngăn được quyết tâm con trai cuối cùng mẹ phải chấp nhận.

Lớp tổ chức buổi liên hoan. Đứa góp vừng đứa góp mật nấu một nồi kẹo vừng. Có các bạn lớp khác đến tham gia. Buổi chiều thật vui. Tôi thành nhân vật trung tâm của lớp. Tôi thành nhân vật trung tâm của cả trường. Tôi tự hứa với lòng mình sẽ chiến đấu kiên cường như anh Trỗi để xứng đáng với tình cảm các bạn hôm nay dành cho.

Các bạn tặng tôi cuốn sổ tay. Bốn lăm đứa viết lời chia tay. Có đứa viết ba trang, có đứa viết kín hết năm trang.

Mẹ đến trường mời các thầy cô giáo đến nhà ăn một bữa com chia tay học sinh.

Trong nhà có một yến thóc ba lá. Thóc này để phòng khi đói quá thì đem ra giã làm thính. Gạo ba lá là gạo đặc biệt. Mẹ cất dành đã nhiều năm. Hôm nay mẹ quyết định mang ra giã cho con trai và thầy cô ăn bát com ngon.

Thầy cô đến nhà từ rất sớm. Ai cũng phải ngụy trang. Ngoài kia bom ném tọa độ và ăn com tối xong là pháo sáng liên tục.

Những lời dặn dò. Em đi chân cứng đá mềm. Em cố gắng phấn đấu tốt. Em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Em là niềm tự hào của cả trường.

Cô Hà dạy môn Hóa ôm tôi khóc. Cô khóc nức nở không nói được câu gì. Cô có hai người anh đi bộ đội hy sinh vào năm 1968 và 1969. Cô trao cho tôi chiếc khăn mùi soa có thêu đôi chim bồ câu và dòng chữ “Nhớ mãi không quên”.

Trước đó các thầy cô đều gặp riêng tôi khuyên đừng đi. Cô Hà không nói gì. Cô không nói nhưng ánh mắt cô có bao điều muốn nói.

Mẹ bê mâm com ra. Trên mâm là hai tô canh gà. Mẹ đã làm thịt con gà trống đầu đàn. Một nồi canh chuối. Nồi com ba lá đặt bên cạnh.

Mẹ xới com cho mọi người. Mẹ ngồi tiếp chuyện nhưng không ăn. Trong lòng tôi dâng lên nỗi xúc động. Mẹ cấm không cho con đi mà giờ mẹ lại làm được bữa com thế này cho con vui.

Tôi đưa bát com lên ăn. Trời oi, mùi gì vậy? Mùi mốc. Nồng nặc mùi gạo mốc. Tôi cố và một miếng com. Vị đắng khét. Đắng tới mức không thể nào nuốt nổi. Com gạo ba lá mà sao ra thế này? Tôi chực khóc.

Sau này tôi mới biết sao nồi com hôm đó lại đắng khét như vậy.

Lý do thứ nhất là thóc chưa khô khén mẹ đã mang cất. Lý do thứ hai là đổ thóc vào thùng ngay khi vừa giữa nắng đưa vào. Thóc đang nóng bốc hơi đổ mồ hôi rồi mốc. Và một lý do nữa, thóc để lâu năm quá bị biến chất.

Mẹ không phải là người phụ nữ khéo léo việc nhà. Một tuổi bà ngoại bán mẹ cho nhà khá giả. Mẹ lớn lên thành con ở nhà người. Không được học chữ, không được ai bày vẽ. Chưa hết tuổi lớn thì lấy chồng. Rồi làm lụng nuôi bốn đứa con một cách vụng về.

Tôi nhìn sang các thầy các cô. Không ai tỏ ra có chuyện gì. Bát cơm nào cũng còn nguyên. Thầy hiệu trưởng xin mẹ cái bát không chan canh chuối. Cô giáo chủ nhiệm cũng xin một bát canh chuối. Mỗi người ăn một bát canh chuối thay cơm.

Mẹ không để ý. Mẹ không biết. Cũng may là khi đó mẹ không biết gì hết.

7.

Ông đội trưởng đội sản xuất đánh kẻng người làng tới họp. Nội dung cuộc họp kêu gọi đóng góp một hộ dân một đến hai hào động viên cháu Ngọc lên đường làm nhiệm vụ. Cả đội sản xuất góp lại được chín đồng.

Chi đoàn thanh niên cũng tổ chức họp. Chi đoàn mua tặng tôi chiếc khăn mặt và nói lời động viên người ra trận.

Bấy giờ tôi đang là đội viên. Trước ngày nhập ngũ một vài người bên xã đề nghị tôi được kết nạp đoàn nhưng không được. Lý do là những ai đã đi học đối tượng đoàn trước đó giờ phải học lại mới được kết nạp để đoàn viên mang tên Đoàn viên Thanh niên Hồ Chí Minh. Tôi làm gì còn đủ thời gian để đi học lại.

Buổi sáng mai mẹ tiễn tôi ra đầu ngõ thì gặp ông xã đội trưởng. Mẹ bàn giao tôi cho ông rồi về. Sao mẹ không đi cùng tôi thêm đoạn nữa? Sao chị và em gái không tiễn tôi đi như những gia đình khác? Đến xã Phú Gia, nơi đơn vị huấn luyện về nhận quân, thấy mỗi người đi đều có cả gia đình bên cạnh. Họ ngồi trò chuyện to nhỏ đến tận trưa. Tôi thì một mình.

Tôi một mình nhưng không buồn. Tâm trạng vẫn đang hồi hộp vì biết phía bên nhận quân còn kiểm tra sức khỏe một lần nữa. Tôi chưa chắc chắn mình được đi.

Xã đội trưởng bước ra từ nhà dân gần đó với khuôn mặt bực bội. Ông vừa bị huyện đội trưởng phê bình quát tháo. Lý do tại sao huyện yêu cầu phải vận động được mười hai người mà giờ chỉ có mặt được bảy. Tôi lại lo. Không đủ số quân họ hoãn lại thì sao.

Buổi trưa chúng tôi vào nhà dân nghỉ chân và nấu cơm. Trong nhà không có gì để nấu. Mỗi người góp ít tiền đi mua gạo còn rau thì đi xin. Bữa cơm đầu tiên xa nhà ăn qua quýt.

Ba giờ chiều đơn vị nhận quân gọi tên khám lại. Tôi được nhập ngũ chắc chắn rồi. Lòng tôi vui sướng mà không có ai bên cạnh để reo lên.

8.

Hành quân. Mỗi người vác trên vai năm ngọn lá cọ để đến nơi huấn luyện lợp lán trại.

Hương Thu, Hương Thanh. Những xã trong huyện lần đầu tiên tôi đặt chân tới. Giọng nói người dân ở vùng này sao khó nghe. Họ nói sai dấu và phát âm kéo dài.

Chân tôi đi bộ nhiều quá sưng phù. Đêm xuống một người bà đun nước ấm pha muối bảo tôi ngâm đỡ đau để mai còn đi tiếp.

Nhìn tôi nhỏ quá, một người đi cùng đoàn vỗ vai: “Mày tiễn anh nào mà đi xa thế, sao qua đêm vẫn chưa về?”. Ba người đã hỏi cùng câu đó. Tôi là bộ đội rồi. Họ không biết tôi là bộ đội sao.

Chuyện thấp bé nhẹ cân còn làm tôi lo âu thêm lần nữa khi đến Cẩm Xuyên. Hai người đi lại trước mặt tôi. Tay họ cầm cuốn sổ và cây bút. Một người cầm tay hỏi tôi tên gì. Người thứ hai khuôn mặt đầy vẻ băn khoăn. Họ trao đổi với nhau gì đó rồi bỏ đi. Một lúc sau quay lại nắm tay tôi lần nữa: cậu được cử làm liên lạc cho ông Thứ.

Buổi học chính trị đầu tiên. Không có bàn ghế, chúng tôi tháo dép lốp ra ngồi. Một ai đó nhanh ý đi mượn được cái ghế nhỏ trong nhà dân. Họ đứng dậy bỏ đi đâu đó. Tôi với tay lấy ghế thì một bàn tay khác cũng giành lấy. Hai tay giằng co. Tôi ngước mắt nhìn lên. Thầy chủ nhiệm lớp 5 của tôi. Thầy Phàn. Thầy chuyển về trường khác dạy cách đây hai năm và ra đi nghĩa vụ từ xã đó.

Tôi thả tay ngay và cùng lúc bàn tay kia cũng rời ra. Hai thầy trò nhường nhau chiếc ghế. Giờ chúng tôi là đồng đội.

9.

Sáu tháng huấn luyện ở Cẩm Xuyên. Ba tháng huấn luyện ở Hương Sơn.

Tập bắn súng. Đào hầm. Làm lán trại. Nấu ăn nhanh. Báo động ban đêm. Cơ động đơn vị.

Trong thời gian huấn luyện ở Cẩm Xuyên tôi được về nhà mười ngày.

Từ ngày tôi đi ở nhà mỗi lần bom trút gần là mẹ lại nằm vật ra hai chân đập đét. Mẹ hốt hoảng mẹ

khóc. Nó giết mất thằng con tôi trời oi. Nóng ruột quá mẹ lại chạy đến nhà ông xã đội trưởng gào thét như thể ông là người gây ra nông nỗi này.

Trước hôm tôi về một người anh nói nhỏ: Mày về rồi cho cha tao xuống đây nhé. Tôi nói: Anh cũng vừa được về mười ngày mà. Anh bảo: Cha tao muốn biết đơn vị con.

Tôi đưa cha anh xuống đơn vị. Hai bác cháu đến nơi vừa bữa cơm trưa. Có tiền mẹ cho trước lúc đi, tôi mời bác vào quán cơm. Bữa cơm có thịt trâu, cá kho và một bát canh cá. Tôi muốn bác yên lòng. Muốn cho bác thấy đời lính không có thiếu thốn đói khổ gì đâu. Bọn con thích thì còn gọi cả rượu.

Gặp con trai, bác nói với anh, thằng Ngọc làm gì ở đơn vị mà khá lắm, nó mời tao một bữa ra trò. Bữa cơm ra trò ngày hôm đó sau này mỗi dịp gặp tôi bác lại nhắc.

Người anh nhờ cha nói với thủ trưởng cho về. Anh muốn hình ảnh cha già lam lũ ốm yếu sẽ lay động lòng thương. Ở nhà anh còn vợ và con nhỏ.

Hôm sau anh lắc đầu: Không được mày ạ. Mày làm liên lạc quen biết nhiều hơn mày nói với họ một tiếng giúp tao. Mày nói là tao xuống đây ăn cơm không quen bị đau bụng.

Tôi trả lời anh, nói giúp anh câu đó đơn giản thôi nhưng khó nghe quá anh ạ.

10.

Ngày 12 tháng 1 năm 1971 tiểu đoàn được lệnh vào Nam.

Mọi người có mặt tại sân vận động Sơn Quang nghe tiểu đoàn trưởng tuyên bố: Cuộc hành quân trường kỳ đánh Mỹ của tiểu đoàn ta bắt đầu.

Âm lịch hôm nay là ngày 29 Tết.

Đang tập trung tôi nhìn thấy anh Nam người cùng làng đạp xe đi qua. Lúc này nhìn thấy anh trong lòng xúc động như thấy gia đình mình. Tôi chạy ù ra, ôm lấy anh nghẹn ngào mãi mới nói được. Lúc nào về phép nhờ anh đến thăm mẹ em, nói với mẹ là em đã đi chiến trường. Từ nay thư từ không nhờ anh gửi được nữa rồi.

Lệnh không được mang theo sổ tay, nhật ký. Ai có thì nhờ người gửi về nhà cất, nếu không gửi về được phải đốt. Lý do không được mang đi là đề phòng bị địch bắt cuốn sổ sẽ rơi vào tay địch. Địch sẽ lần theo địa chỉ về tận địa phương rải truyền đơn xuyên tạc sự thật gây hoang mang cho người ở nhà. Cha mẹ họ hàng dân làng sợ hãi không cho con đi lính. Thanh niên sợ hãi mà chùn chân.

Tôi bí mật cất cuốn lưu bút vào đáy ba lô. Thỉnh thoảng mang ra đọc và chép chuyện xảy ra trên đường chiến đấu.

Tiếng hô lớn hành quân. Đoàn người cất bước dọc bờ đông dãy Trường Sơn.

Qua đò, hai xe ô tô chờ sẵn.

Xe chuyển bánh cũng là lúc xóm Sơn Phố lên đèn.

Trên xe, phải giữ bí mật nên anh em không nói chuyện nhiều. Vài cái đầu thò ra ngoài xe nôn. Ba, bốn tiếng đồng hồ sau thì những ai bị say xe nôn hết ra ba lô của người ngồi trước và người ngồi bên cạnh.

Đến Quảng Trạch - Quảng Bình rồi các chú ạ. Lái xe thông báo. Chúng tôi được ở lại Quảng Trạch một ngày. Tới xã Cự Nam, huyện Bố Trạch thấy người dân nấu bánh chưng, chuẩn bị đồ tết nhớ ra ngày mai là tết.

Hành quân bộ đường rừng vào ban đêm. Cơn mưa rừng đầu tiên trút xuống. Máy bay B52 dội bom. Những mảnh bom lừ lừ bay sát qua đầu, đất đá văng ào ạt. Dưới chân bùn đến mắt cá chân. Ba lô trĩu nặng. Trời tối thui không nhìn thấy đường đi. Đêm ba mươi tết đất trời thương xót không ai bị trúng bom.

Mờ sáng đến trạm 5 của đường dây 559. Bên vệ đường thấy một nồi cơm trắng đổ xuống gốc cây. Nghe nói là chiều qua nhiều tiểu đội không cắt cử người nắm cơm mà để nguyên cả nồi cơm gánh lên xe nên sáng ra phải đổ cơm đi để lấy nồi. Đến chiều nồi cơm của tiểu đội tôi cũng bị đổ đi vì lý do như vậy.

Hành quân hết đất Quảng Trị tôi được lệnh bổ sung cho sư đoàn 320 tham gia chiến dịch Nam Lào.

11.

Trận chiến đầu tiên của đời lính.

Ngày 2 tháng 2 năm 1971.

Đại đội lên đường vào vị trí chiến đấu tại căn cứ điểm 601.

Năm giờ sáng.

Bốn chiếc xe tăng. Gọi là một đại đội xe. Đoàn xe xuất kích được một chặng đường, cách trận địa chừng một cây số thì một chiếc bị sa lầy, rơi vào hố bom địch.

Địch đổ bộ vào hôm qua. Hôm nay ta đánh. Chúng chưa kịp làm hàng rào.

Ba chiếc xe tăng tiến vào. Địch trong đồn dùng súng hỏa lực, súng bộ binh, súng hỏa lực tầm xa bắn xung quanh trận địa. Hàng chục chiếc trực thăng, hàng chục chiếc 0V10. AD6 bay rầm trời trút đạn rocket xuống hướng quân ta đang tiến.

Đài quan sát của ta báo về lực lượng địch trên đồn gồm một tiểu đoàn bộ binh.

Địa hình này tôi hoàn toàn xa lạ. Tôi được bổ sung vào tiểu đội cối 60, tức tiểu đội 10 hỏa lực của đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320.

Trước khi đi tôi được bố trí mang 1 cái đế cối nặng 15 kg, 11 quả đạn, 1 khẩu AK có 100 viên đạn.

Đơn vị dàn quân, nghe lệnh của đại đội nổ súng. Tiểu đội có hai khẩu cối. Tôi đã tiếp tay cho xạ thủ số 2 được năm quả. Súng bộ binh chưa bắn được viên nào.

Mười giờ. Địch co cụm lại. Ta chiếm được lô cốt đầu cầu và tuyến 1.

Quân ta tạm dừng lại. Lý do là ông Nguyễn Văn Tranh tiểu đoàn phó đã bị một mảnh pháo cắt đôi ống tay trái từ khúc tay trở ra. Cánh tay dính vào cơ thể bằng một mảnh da và cụm gân. Tổ liên lạc đang băng bó. Ông lệnh cho liên lạc tiểu đoàn là anh Kiều Duy Tý chặt đứt phựt ngay phần lủng lẳng băng bó cho tiện. Mọi người nhìn nhau ngập ngừng.

“Không làm được gì nữa đâu mà để lại”.

Anh Kiều Duy Tý rút dao găm ra thực hiện mệnh lệnh thủ trưởng.

Trận đánh tiếp tục.

Viên AR15 xuyên qua ngực ông Bảy đại đội phó đại đội 1. Trận địa như đang trong corn giông bão. Tiếng đạn bộ binh trong đồn bắn ra không ngớt. Rừng nứa gãy đổ toang toác. Tiểu đội tôi là tiểu đội hỏa lực, không được bắn tùy tiện.

Tôi được phân công cùng với đồng chí vận tải tiểu đoàn khiêng ông Bảy ra phía sau. Ông Bảy nằm trên cáng thưong lúc tỉnh lúc mê.

Chúng tôi vừa đi vừa dò đường. Ra phía sau trận đánh có nhiều người đi lại. Họ chỉ chúng tôi cách qua khe qua suối.

Vừa mệt vừa đói chúng tôi dừng chân nghỉ. Com của tôi bỏ lại trận địa. Tôi ăn chung nắm com của anh vận tải.

Ăn cơm xong nhìn ông Bảy tưởng như chết rồi. Tôi hơi hoảng. Anh vận tải có kinh nghiệm lấy tay đẩy nhẹ vào lỗ mũi ông và sờ vào ngực thấy tim vẫn còn đập. Mừng quá vừa cáng vừa chạy để kịp bàn giao cho tuyến ngoài.

Năm giờ chiều chúng tôi xong nhiệm vụ bàn giao thương binh.

Đói quá, chúng tôi đi tìm anh nuôi xin cơm. Anh nuôi trả lời, ở đây chỉ có nước chứ cơm thì không.

Hai anh em tìm về đơn vị. Đi đến bên con suối lớn nghe tiếng một đơn vị gần đó đang chia cơm. Tôi chạy vào cầm ngay cái vung giữ tay anh nuôi lại cầu xin. Chúng tôi đưa thương binh ra phía sau, giờ về đơn vị thì xa quá, xin anh bớt cho một xẻng cơm. Theo tay anh nuôi chỉ tôi chạy vào hầm lấy ăng gô ra đựng phần cơm mình.

Ăn xong thì trời tối. Cơn buồn ngủ kéo đến. Chúng tôi xin được ngủ lại. Không cần họ trả lời, hai anh em bẻ ôm lá rải bên bờ suối ngủ một mạch tới sáng.

Tám giờ tối chúng tôi lần tìm về được tới đơn vị. Sau trận hôm qua tiểu đội tôi hai người hy sinh, một người bị thương.

Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Tranh đã hy sinh.

Sau khi được băng bó ông Tranh tiếp tục chỉ huy đơn vị đến hai giờ chiều. Đơn vị chiếm lĩnh trận địa. Tạm thời thắng lợi. Ông bị trúng đạn thêm lần nữa. Một viên đạn AR13 bắn xuyên đùi. Máu ra quá nhiều.

Tiểu đoàn ra trận ở thế chủ động, qua một ngày con số hy sinh và bị thương hơn một nửa. Số quân còn lại 150 người. Tiểu đội hỏa lực 9 người còn lại 6.

Chúng tôi nghỉ lại bên bờ suối một ngày để củng cố lực lượng.

Chưa kịp nghỉ ngơi thì nửa đêm có lệnh phải trở lại vị trí hôm qua để thay cho đại đội 10 đang nằm giữ trận địa. Đại đội lên đường trong đêm.

12.

Bản A Lầy Nhầy.

Bảy giờ đêm, ngày 29 tháng 4 năm 1971.

Chúng tôi được lệnh lên đường đến bản Đông tập trung cho toàn bộ tiểu đoàn để chi viện cho đơn vị bạn.

Dàn xong đội hình chúng tôi nghe phổ biến mật khẩu đề phòng ta và địch chạm mặt nhau mà không phân biệt được.

Đại đội trưởng Tài đi từ đầu đoàn đến cuối đoàn: Hỏi Tài thì đáp Sộp. Hỏi Sộp đáp Tài. Và ngược lại.

Ông Tài là đại đội trưởng. Ông Sộp là chính trị viên trưởng đại đội.

Mật khẩu thứ hai: Vỗ vào báng súng ba cái thì đáp lại hai cái. Vỗ vào báng súng hai cái thì đáp lại ba cái.

Bảy giờ đêm rừng núi mịt mù. Trinh sát dẫn đầu. Anh em nghe tiếng động nhẹ bám sát vào nhau đi theo hàng dọc khỏi bị lạc.

Không nghe tiếng máy bay. Chỉ có ánh lửa chớp nhoang nhoang trước mặt. Và tiếng ầm ầm của đất đá cây cối.

B52 rải cắt ngang đội hình.

Tôi bị tung lên lên ngọn cây. Lộn nhào xuống. Mũ cối vẫn trên đầu.

Tôi bò dậy. Cảm thấy khó thở. Mặt ướt đẫm. Hai tay vuốt liên tục. Máu chảy ra từ mũi từ miệng mà tôi tưởng là mồ hôi.

Tôi về hầm. Chúng tôi mới rời đi mấy chục bước chân.

Mày sao nằm đó. Ra mà nhặt anh em. - Một người anh quát.
Không hiểu sao em bị choáng đầu ù tai. - Tôi đáp.

- Vậy cứ nằm đó đi.

Trong bóng đêm anh không nhìn thấy mặt tôi lấm máu.

Tôi nằm thêm một lúc rồi cũng phải dậy. Tai vẫn ù đầu vẫn choáng váng. Tôi ra cùng anh em đi nhặt anh em. Những người anh em tôi chưa biết mặt.

Chúng tôi mò mẫm nhặt suốt đêm. Sáng sớm mai nhìn thấy bốn khối thịt xương. Tiếp tục nhặt. Phải nhặt hết. Không được để sót.

Nhìn lên ngọn cây là ruột. Xuống dưới khe là chân. Bên kia sườn núi là đầu. Tôi nhặt đem về đổ vào số xương thịt anh em.

Đại đội trưởng Tài đâu?

Một thân người nằm gục dưới chân cột ngôi nhà sàn. Mảnh bom xuyên thẳng vào hậu môn. Tôi lật mặt người. Đại đội trưởng đã chết cứng.

Tôi tìm thấy ba lô mình văng ra bên một gốc cây đã bị phạt ngang. Hình dung ra cảnh đêm qua mình bị hất tung lên và rơi xuống cùng lúc với thân cây. Tôi đã vướng phải một quả bom đào nổ dưới chân. Nếu không phải bom đào thân thể tôi chắc đang nằm trong đống thịt phân chia đằng kia.

Tiểu đội hỏa lực của tôi đi giữa đội hình đại đội. Một người bị lìa đầu, một người văng mất chân.

Các đơn vị đưa danh sách số người chết. 58 người chết. 60 người bị thương.

58 phần xương thịt chia ra tương đối đồng đều. Không cần khớp. Không cần đầy đủ. Không cần. Không thể.

Trải tăng. Trải ni lông. Bốc thịt bốc xương vào.

58 ngôi mộ.

Ban chỉ huy đại đội 11 bị xóa sổ.

17 tuổi. Tôi viết trong cuốn sổ đây là trận số 10.

Còn bao nhiêu trận đang chờ tôi phía trước?

13.

Sau trận xảy ra ở bản A Lầy Nhầy tôi phải vào nằm viện hai ngày. Ra viện mặc một bộ quần áo và đi đôi dép nhặt được của người đã hy sinh.

Về đến đơn vị nhận lệnh lên chốt ở căn cứ mới chiếm được hôm trước.

Giữa mùa chiến dịch pháo bắn tứ phương, máy bay hoạt động đầy trời, đường lên chốt qua nhiều khe suối, anh nuôi đưa cơm khó khăn. Có khi hai ngày vẫn không lên được.

Cách trận địa ba trăm mét có kho lương thực của ta đã bị đốt cháy cách đấy hơn một tháng. Trung đội trưởng cho hai người ra kho tìm xem có gì ăn được không mang về. Việc này cũng là liều bởi vì địch thường gài mìn xung quanh kho và dưới các thùng lương khô.

Hơn tiếng đồng hồ sau hai người trở về cùng thùng lương khô đã cháy khét. Tôi cố gạt từng thanh, tách hết lớp cháy đen thui, còn lại một chút bằng ngón tay màu hồng cho vào miệng cố nuốt mà đắng quá không nuốt được.

Tôi mang súng dạo quanh chốt xem địch còn sót lại cái gì ăn được không. Gặp được mấy bọc cơm của anh em đã chết cách đó cả tuần. Mang về dùng dao cắt gọt. Phía ngoài bị mốc rêu xanh, lớp trong mùi rượu. Cắt cho mỗi người mỗi miếng nuốt thật nhanh.

Pháo tầm xa các ngả của địch tập trung bắn về cao điểm 826 ở cây số 23. Bắn liên tục mười một tiếng đồng hồ thì ngớt. Ba phía chân đồi địch bò lên đồng loạt.

Bò lên cách chừng năm mươi mét chỉ huy địch hô to xung phong. Chúng tôi bên trong chờ lúc đó nổ súng và lựu đạn. Hai bên giao tranh liên tục một giờ đồng hồ. Địch chết, bị thương, bỏ chạy xuống chân núi. Anh em mở ba lô địch vừa chết tìm đồ ăn. Ba lô nào cũng có cơm, gạo, giò và thuốc lá. Cười nói với nhau, trận nào cũng được như thế này thì hay quá.

Tôi lên cơn sốt. Sốt và khát nước kéo dài suốt bốn, năm tiếng đồng hồ. Nằm mê man dưới giao thông hào. Xẩm tối chỉ huy chốt cho tôi bám theo anh nuôi đưa cơm về tiểu đoàn uống thuốc. Ba giờ lên cơn sốt một lần. Tôi lả đi. Anh em y tá cho tôi về tuyến sau.

Đêm cuối tháng 5 năm 1971 chiến dịch Nam Lào kết thúc. Tôi nằm bệnh viện của trung đoàn. Tiếp tục lên bệnh viện mặt trận B5 của quân khu.

Lên viện mặt trận tôi mới biết bệnh viện dã chiến theo đường dây của chiến dịch có quá nhiều thương binh ở mặt trận về. Thương binh và bệnh binh sốt rét phải đi ra theo tuyến sau.

Anh em y sĩ cho tôi lên một chuyến xe ra Bắc. Vượt qua đèo 900 ở Quảng Trị xe phải dừng lại vì một đoạn đường vừa trúng bom, công binh đang khắc phục. Tôi nằm trên xe rét run lẩy bẩy lúc tỉnh lúc mê. Một mình tôi là bệnh nhân sốt rét, mười người kia là thương binh nặng. Tất cả đều nằm. Không ai ngồi được. Không ai nói với ai câu gì. Thỉnh thoảng có tiếng la hét vì đau quá. Một tiếng bom nổ bên cạnh đồi. Đất đá rơi vào thùng xe trúng vào người đang nằm trên xe. Và lại tiếng la hét.

Đường được san lấp. Xe tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau chúng tôi được cáng vào một hang đá to rộng. Tôi ngắt cơn sốt, tỉnh táo, dậy đi lại. Hang đá đông người nhưng vẫn mát mẻ. Có máy nổ thắp sáng. Có mạch nước ngầm để sinh hoạt. Đó là một bệnh viện của đường dây mặt trận B5 và sở chỉ huy của mặt trận.

Ở lại đây một ngày chứng kiến mười lăm trận bom. Mỗi lần bom dội đá trên núi tuôn xuống cửa hang trắng như vôi.

Hôm sau chúng tôi lên xe và lần này chở thêm mười lăm thương binh. Thương binh nặng nằm trên lớp lá cây. Đường đi quá xấu. Xe lắc mạnh. Có những đoạn đường vừa làm được vài tiếng đồng hồ đã bị phá. Lại dừng chờ.

Tận khuya xe đến đất Vĩnh Linh. Y tá và nhân viên chạy ra khiêng bệnh nhân nặng. Bệnh nhân nhẹ từng người được dìu, được cõng vào lán. Giường cơ động là những tấm phản được đặt trên hai cây gỗ nhỏ. Những cử chỉ ân cần ấm áp. Tôi cảm thấy như được về nhà mình, đang ở nhà mình. Lâu quá rồi tôi không được sống trong hơi ấm gia đình.

Sáng sớm tiêm xong tôi mang quần áo ra suối giặt. Ngâm mình trong nước suối Vĩnh Linh trong vắt ban mai nước mắt tôi lăn trào. Sao mà bình yên thế này. Không tiếng bom gầm. Tiếng đạn bộ binh nghe thưa và xa tít.

Tôi vò hai bộ quần áo. Một bộ dài và một bộ mặc lót. Bệnh viện không có xà phòng tôi phải đi tìm hòn đá nhám để chà cho hết các vết máu khô.

Hai bộ quần áo này đâu phải của tôi. Và bộ quần áo lát nữa sẽ mặc cũng không phải của tôi. Đó là quần áo của những người đã bỏ xác lại chiến trường.

Đồng chí ơi áo quần này bao lâu rồi anh chưa giặt. Tôi đang giặt quần áo cho anh tôi sẽ mặc quần áo của anh. Tôi đang kỳ sạch những vết máu khô bụi đường.

Một người xuống suối tắm. Nhìn vẻ mặt tôi anh hỏi có phải là lính mới không. Tôi nói về những bộ quần áo. Anh vỗ vai ối trời ơi chuyện thường. Mày lính mới chứ bọn tao lính sáu bảy sáu tám. Đâu phải mỗi mày nhặt đồ người chết. Cái quần tao đang mặc đây bị bom làm mất nửa ống rồi, tao cũng không biết mình mặc lại của liệt sĩ nào.

14.

Sau chiến dịch Nam Lào đơn vị quay về đóng quân tại Kỳ Anh. Cuối tháng 10 năm 1971 nhận nhiệm vụ đi B dài.

Bảy ngày đi được một ngày nghỉ. Sau một tháng nâng lên mười ngày đi một ngày nghỉ. Đi được một tháng hai chín ngày tới Ngã ba Đông Dương. Chúng tôi được bố trí đến Kon Tum.

Kon Tum mùa khô. Khu rừng không có dân cư. Nơi đây có vẻ như chưa từng có dấu chân người. Trên rừng không biết kiếm thứ gì ăn. Khe suối khô cạn. Sư đoàn dừng lại đây dựng lán trại và tiếp tục học chính trị.

Học chính trị. Giáo viên là những người ngoài Bắc vào. Chúng tôi ngồi im chúng tôi nghe.

Việt Nam hóa chiến tranh là âm mưu, thủ đoạn của Đế quốc Mỹ; là chiến lược dùng người Việt đánh người Việt để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường. Lực lượng quân đội của chính phủ Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ về tài lực và quân sự đánh thuê cho Mỹ.

Sứ mệnh của người lính chúng ta là bảo vệ tổ quốc, thống nhất đất nước.

Tôi học chưa xong lớp bảy buông sách vở ra đi. Kiến thức về lịch sử đất nước còn mơ hồ. Bài giảng về lịch sử hôm nay ngấm vào máu.

Ban ngày học chính trị đêm về thì đói. Đói cồn cào ruột gan.

Đói. Nghĩ gì cũng thèm. Đói. Lúc nào trong đầu cũng nghĩ cách kiếm cái gì cho vào bụng.

Các thủ trưởng đi trinh sát. Sư đoàn còn lại hai cấp phó và anh em lính.

Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo. Không rau, không thức ăn, không muối.

Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo rồi cũng không còn được duy trì. Gạo đã hết.

Chúng tôi vào rừng tìm nhai thử các loài cây lá xem có gì ăn được hay không mang về. Đi hai, ba cây số tìm được củ mài. Mùa khô cây khoai mài bị trụi lá khó phát hiện, tinh mắt và có kinh nghiệm đi rừng mới tìm được.

Ngày hôm sau đi thêm ba cây số nữa phát hiện ra một rừng cây giống như cây dừa. Anh em gọi là dừa núi. Cây dừa núi cao, thân to. Trèo lên chặt ngọn xuống rồi băm bỏ hết phần thân ngoài, ăn phần nõn. Cả tiểu đoàn tập trung về đó khai thác. Mới hai ngày mà cây đổ ngã vài héc ta. Sợ lộ nơi đóng quân, trung đoàn không cho khai thác nữa.

Cứ lần hồi qua ngày như vậy. Ngày nào không học chính trị thì đi rừng tìm lượm. Thấy gì cũng cắn thử nhai thử, vị đắng thì nhả ra.

Tôi tìm thấy một cây mướp có vị đắng. Về thông báo với anh em trong tiểu đội. Hôm sau vào hái thì cây mướp chỉ còn lại mấy quả. Đêm qua ai đó ở tiểu đội khác nghe được và họ đã đi hái trước.

Tết đến. Cái tết thứ hai của đời lính. Tết đầu tiên trên đường hành quân. Quà tết là những trận bom nổ toác đường đi. Sau này, đón thêm ba cái tết ở chiến trường nữa mới thấy được đây là cái tết yên vui nhất đối với tôi trong những năm ở rừng.

Tiêu chuẩn tết: Bảy người một lạng thịt trâu. Năm người một lạng thịt lợn. Một người hai lạng nếp. Ba người hai lạng đường. Ba người một lạng thuốc lá rời có kèm theo giấy để cuốn.

Anh em trong tiểu đội bàn bạc. Một kế hoạch được lập ra. Chúng ta sẽ mang đồ dùng cá nhân đi vào bản làng đổi nếp.

Cách nơi chúng tôi đóng quân mười lăm cây số có một bản làng.

Những người lính có gì để mang đi đổi?

Đoạn dây cao su phòng khi đứt quai dép thì thay, khăn mặt, lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mùi soa, ảnh người thân, các lọ thuốc nhỏ mắt.

Đổ hết đồ trong ba lô ra, ai có gì góp nấy.

Tôi và anh Kiều Duy Tý lên đường đi tìm đồng bào đổi quà. Anh Kiều Duy Tý giờ đã là tiểu đội trưởng. Phải đi thật kín đáo để trung đoàn bộ và các đơn vị bạn không nhận ra.

Chín giờ đêm hai anh em lên đường. Đèn pin ngụy trang, chỉ để ánh sáng lọt ra bằng hạt ngô, dùng la bàn chỉ theo hướng Tây Nam.

Mò mẫm theo đường mòn sáng hôm sau thì đến bản. Chúng tôi nói tiếng Kinh họ nói tiếng đồng bào.

Chúng tôi đưa các đồ vật ra khoe và ra ký hiệu đổi.

Tiểu đội trưởng giơ cuộn dây cao su và đế dép cao su ra làm mẫu. Một đôi dép cao su hoàn thành trong chốc lát.

Đồng bào thích không?

Thích.

Thích thì một đoạn dây đổi hai típ gạo nếp.

Đồng bào đồng ý đổi. Năm đoạn dây cao su đổi được mười típ gạo.

Tôi đưa lọ thuốc nhỏ mắt ra, gọi ba người mắt kèm nhem đứng xếp hàng để nhỏ vào mắt cho họ. Đồng bào hiểu ý đây là thuốc quý làm sạch mắt bẩn.

Họ quay lại nói với nhau điều gì đó. Một lúc sau thấy nhiều người kéo đến. Hai anh em như hai nghệ sĩ tài ba đứng biểu diễn ảo thuật trước những con mắt ngạc nhiên thán phục của dân bản.

Đồng bào thích không? Ai cũng gật đầu. Một lọ thuốc nhỏ mắt đổi năm típ gạo.

Một cái khăn mùi soa đổi hai ống cơm lam. Riêng chiếc khăn có dòng thêu mến tặng và bông hoa đổi được ba ống cơm lam.

Còn ảnh cô bạn gái. Tiểu đội trưởng gọi một thanh niên lại. Có thích không? Thích. Thích thì đổi. Đợi khi nào cô ấy vào thì lấy. Bức ảnh của người bố. đồng bào thích không?

Xế chiều, hai ba lô chật căng. Đồ mang đi đổi cũng đã hết. Chúng tôi hẹn hôm sau quay lại mang theo nhiều thứ quý giá.

Một cô gái có vẻ như nuối tiếc. Tôi nói, còn cái này để đổi nữa thôi. Tôi kéo cô lại chỗ kín đáo, chỉ vào cái quần đùi màu đỏ đang mặc trên người. Cô ra hiệu muốn đổi chiếc quần màu đỏ bằng một gùi rau cải.

Băng rừng, về đơn vị. Chờ tới trời tối mịt chúng tôi mới dám ra khỏi rừng. Chuyện này lộ ra sẽ bị kỷ luật.

Anh em ngâm gạo, gói bánh, mượn nồi anh nuôi về nấu. Đêm ba mươi tôi mang một chiếc bánh lên biếu đại đội phó. Bánh đâu ra thế này. Chết chết. Các cậu làm thế này thì chết.

Những năm tháng ở Tây Nguyên, hãy nói về chuyện ăn trước khi nói chuyện đánh nhau.

Thiếu muối. Cả tháng trời không có muối. Không có muối chúng tôi phải làm cách gì?

Chặt tre, đốt phần mắt tre cháy thành than dùng thay muối. Hoặc ăn thật nhiều ớt.

Một hôm có người anh em reo lên mừng rỡ. Có muối rồi. Đó là muối mỏ. Muối này chát xít, đào trên rừng mang về, từng cục to tướng. Cho vào nồi quân dụng luộc sôi. Đổ nước đen bẩn.

Tiếp tục nấu. Nấu suốt cả ngày như nấu cao. Cho đến khi cục muối tan mịn mới chia về các đon vị.

Chúng tôi run rẩy chống gậy đi từ dưới dốc lên. Trên dốc xuất hiện cô gái bản. Cô đang đi xuống. Váy xòe tung tẩy. Khuôn mặt tưoi sáng. Chút phấn khích cho một ngày hành quân mệt mỏi.

Lưng chừng dốc, bộ đội đi chậm lại, cô em cũng đi chậm lại. Nhìn nhau. Sát vào mặt nhau.

Thằng Chung nghịch ngợm dùng cây gậy trong tay khều váy cô em: Ê đồng bào, cái gì đây?

Cô gái là con ông trưởng bản.

Chiều tối về đon vị đã thấy cô gái cùng với cha mình ra ngồi chờ đấy. Hai cha con đến báo cáo sự việc lên thủ trưởng.

Bộ đội không tốt. Bộ đội nhìn thấy của quý của con gái mình rồi. Đồng bào mình không bao giờ có chuyện đó. Bộ đội làm chuyện xấu giờ con mình không ai lấy nữa, không có chồng nữa.

Bộ phận chính trị - ngoại giao đứng ra thu xếp với trưởng bản. Trưởng bản bắt đền ba tạ muối.

Không đền thì phải bắn bộ đội.

Ba tạ muối đủ cho cả một sư đoàn dùng trong thời gian dài. Ba tạ muối đưa được từ Bắc vào Tây Nguyên là chuyện không đơn giản. Dân bản ở đây nằm giữa ta và địch. Ta đang muốn dân bản về phía mình. Để họ mất lòng là nguy hiểm.

Mùa mưa tới. Rừng xanh tươi, mát mẻ.

Suối nước đã tràn về, xuống khe bắt cá. Chặt cây dương xỉ bên bờ suối, lấy phần lõi, đem về kho với cá. Cây dương xỉ trong rừng lâu năm, cao vỏng như cây gỗ.

Một người trong tiểu đội tìm được rổ nấm mang về nấu cháo. Nấm độc. Ăn xong bảy người nôn mửa, đi ngoài. Cả tiểu đoàn còn một cân đường để dành cấp cứu cho ban chỉ huy phải đưa ra giải độc.

Gặp được vườn chuối ngày nào cũng ăn chuối trừ bữa. Sau một tuần không đi ngoài được, ai nấy như rơi vào trận ốm nặng.

Đi ăn trộm trộm sắn của đồng bào. Sắn luộc nửa chín, nửa sống chưa kịp thông báo cho anh em thì máy bay địch rà rà trinh sát. Chết thì chết tao ăn cái đã. Anh Thắm người Cao Bằng chạy đi tay vẫn cầm theo sắn nóng. Cầu mong anh đừng bị thương khi sắn vẫn ngậm trong mồm.

Tôi đi vào bản không còn ai. Họ đã chuyển đi đâu không rõ. Còn lại một con chó. Tôi đập chết con chó mang về cứu đói anh em.

Tiêu chuẩn bệnh nhân sốt rét mỗi tuần được một bữa cá mắm, một thìa canh. Cá mắm vận chuyển từ Campuchia về đến mặt trận đã thành ruốc mùi khó chịu. Trong cơn mê man tôi mơ được ăn bát cơm nóng muối vừng.

Một trăm xe hàng xuất phát từ Ninh Bình, Thanh Hóa có bao nhiêu xe qua được vùng Nghệ Tĩnh. Và trong số xe đi đến Quảng Trị bao nhiêu lên được tới Tây Nguyên?

Bao nhiêu xe chở hàng cháy dọc đường. Bao nhiêu người lính lái xe đã bị thương. Chúng tôi biết vì sao mình đói. Chúng tôi phải tìm cách để sinh tồn.

Canh chốt đói lả anh nuôi không lên được chúng tôi mong địch lên. Trong ba lô địch luôn có đồ ăn.

Trên đồi cao hai điểm chốt A và B. Bên chốt A diệt địch thu được chiến lợi phẩm là bao gạo. Ban đêm địch không lên chốt. Nửa đêm anh em mang nồi đại liên đựng đạn của địch ra nấu com. Nhắn người bên chốt B sang ăn cùng.

Sáu anh em ngồi trong hầm thấp chờ com chín. Những khuôn mặt háo hức nhìn xuống nồi com. Người lính mới dùng nồi đại liên không biết tháo dây roăng trước khi nấu. Tiếng nổ vang. Nồi com bung nắp. Com bắn tung tóe vào mặt vào mắt. Tất cả đều bị bỏng. Người anh ở chốt B sang bỏng nặng quá một mắt bị mù. Anh ấy đã bị thưong vì bom com trên chốt lúc giữa đêm.

15.

Chiến dịch Kon Tum 1972.

Đêm 12 tháng 1.

Tiểu đoàn 9 vây cao điểm 1015.

Trên cao điểm địch đóng một đại đội do Phan Mạnh Hùng làm chỉ huy.

Sau khi bị bắt tên Hùng khai là dân gốc Bắc. Năm một chín năm tư hắn bảy tuổi, theo anh em vào Nam rồi gia nhập quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mẹ hắn vẫn bán quán nước ở phố Hàng Bạc, Hà Nội. Hắn không muốn mẹ biết tin về mình.

Địch đóng ở cao điểm này đã lâu. Hàng rào có hai lớp. Hầm hố chắc chắn. Tiểu đoàn tôi chia ba mũi. Nổ súng một ngày vẫn chưa chiếm được lô cốt nào. Chúng tôi vây được địch nhưng chỉ cầm cự ở ngoài đồn. Địch ở trong thả sức nổ súng. Lợi dụng tiếng súng thưa lại nhích thêm vài ba mét. Cầm cự suốt đêm đó.

Thông tin hữu tuyến đứt dây, vô tuyến không có tín hiệu, sáng hôm sau tôi phải chạy đi đưa công văn đến phía đông đồn địch. Tiểu đoàn trưởng là ông Phạm Văn Thành nói với tôi: “Đồng chí về phía đại đội 10 nói là lệnh của tiểu đoàn dùng D.K bắn bảy quả để mở cửa và phải khẩn trương để cho anh em phát triển chiếm trận địa càng sớm càng tốt”.

Đại đội 10 do anh Hòa chỉ huy. Sáng ngày 10 đại đội 10 đánh đại đội biệt kích ở cao điểm 982 và đã làm chủ được trận địa.

Từ chỉ huy đoàn đến hướng đại đội 10 khoảng hai cây số đường chim bay nhưng phải đi mất bốn cây số mới tới. Tôi đi cùng anh Thắm.

Chúng tôi phải lần qua tổ tiền tiêu của địch nằm trên trục đường đi lại ở giữa rừng rậm khe suối. Máy bay nhả bom bi và rocket liên tục. Trên người tôi chỉ có một khẩu AK, hai quả lựu đạn.

Tôi bảo anh Thắm: tai thật thính, mắt thật tinh, đi không được tạo ra tiếng động, bám sát tôi, nếu gặp địch phải nổ súng ngay và nghe theo lệnh của tôi.

Ba tiếng đồng hồ chúng tôi mới gặp được anh Hòa. Anh nói: “Đồng chí về báo tiểu đoàn chi viện thêm quân, đại đội 10 đã thương vong một nửa”.

Tôi và anh Thắm quay ra, bám theo hai người lính vận tải đang cáng thương binh.

Một tiểu đội địch từ đường 14 đi lên. Chúng vừa đi tuần vừa đi chi viện cho cao điểm.

Hai người vận tải đặt cáng thương binh bên cạnh gốc cây, cho anh thương binh nằm nghỉ tại đấy, quay lại cùng nổ súng với tôi và anh Thắm.

Họ chỉ có một khẩu súng. Về nguyên tắc người nào cũng phải mang súng. Tôi bảo, bốn người ba khẩu súng cũng chơi, ta sẽ diệt địch lấy súng.

Chúng tôi bám theo địch. Hai bên cầm cự hơn tiếng đồng hồ. Tôi vừa nổ súng vừa hô xung phong. Bốn tên địch gục tại chỗ, những tên còn lại bỏ chạy. Trận đánh gọn gàng, đơn giản. Tôi sau đó được bằng khen.

Ngày 16 tháng 1.

Tôi cùng ông Thành và một tiểu đội trinh sát đi kiểm tra trận địa. Bố trí xong bộ phận chốt giữ, khoảng tám giờ sáng pháo của địch bắn tới tấp vào trận địa. Địch điều một tiểu đoàn bộ binh đến hòng lấy lại cao điểm ngày hôm qua bị thất bại. Đạn cay, đạn hóa học bắn liên tục. Chúng tôi bị chảy nước mắt, nước mũi, hoa mắt, đầu óc ngây ngất.

Ba cái bi đông không còn giọt nước nào. Khăn mặt ông Thành tìm không thấy. Tôi đái vào chiếc khăn của mình, xé đôi, chia cho ông một nửa úp vào mặt để giảm bớt nồng độ chất độc.

Về đến sở chỉ huy thì cũng là lúc bộ binh địch tràn đến bao vây trận địa khi chúng tôi vừa đi khỏi. Trong trận địa lúc đó chỉ có hai mưoi người và một vô tuyến. Máy bay bỏ bom bi, bom phát quang, napalm. Anh em báo về con số bị thưong năm, chết năm còn lại mười.

Ba giờ chiều địch ngừng bom pháo, bộ binh tiến lên chiếm. Mười người còn lại bắn trả xối xả. Địch không chiếm được mét trận địa nào.

Tiểu đoàn 9 bám trụ tại đây một tuần với mười hai trận đánh. Một trăm quân được bổ sung quá ít so với con số thiệt mạng.

Tin từ sư đoàn: Ta đã làm chủ được vòng ngoài của địch, bảo vệ được trục đường 14, canh giữ được trên hai mưoi cây số và tiếp tục phát triển.

Chúng tôi rút quân và tiến về phía bắc thị xã Kon Tum.

Ngày 23 tháng 1.

Cao điểm 601 đường 14. Vùng này toàn cây le và cây tre lắm gai đi rất vướng. Chặt cây thì phát tiếng động đành dẫm lên gai mà đi.

Cách đồn địch chừng trăm mét chúng tôi bị lộ. Bị lộ nhưng hai mũi bộ binh đến mười giờ đêm cũng đã tiếp cận đến hàng rào thứ nhất. Điểm này địch có năm lớp hàng rào. Chúng tôi dùng loa kêu gọi. “Địch vận” vì chiến dịch mở ra nửa tháng, quân hao tổn nhiều, số quân bổ sung chẳng thấm vào đâu.

Tiếng loa vừa cất lên thì hỏa lực của địch bắn ra như mưa.

Ngày 28 tháng 1.

Tiếp tục đánh căn cứ xưởng cưa. Xưởng cưa là một căn cứ nằm trên quả đồi phía tây đường 14.

Qua một đêm lần mò chúng tôi mới tới nơi để đặt sở chỉ huy tiểu đoàn.

Sáu giờ sáng, đại đội 10 cũng vượt suối tới trận địa. Địch phát hiện ra, tập trung hỏa lực, súng to, súng nhỏ bắn liên hồi. Đại đội 10 phải nằm lại phần nhiều ở bờ suối.

Đại đội 11 bị lạc. Tôi được lệnh phải đi tìm.

Một mình tôi đi giữa rừng cây le, bom vẫn dội, đứng trên cao điểm nhìn xuống thấy như một biển nước màu vàng. T ôi vừa chạy vừa xác định phương hướng.

Dẫn đại đội 11 về vị trí xong tôi lại lần mò về nơi chỉ huy của tiểu đoàn. Lúc này có lẽ đã một, hai giờ sáng. Pháo sáng liên tục. Máy bay thả đèn dù. Bom pháo làm tre đổ ngổn ngang. Tôi vấp ngã, tre cắt ngang cổ chân tôi, máu chảy nhiều. Trên tay tôi còn phải cầm bộ phận quy lát của AK để chạy. Khi ngã thân người tôi đổ dồn về phía trước nên bị quy lát đâm thủng lòng bàn tay phải. Tôi ngồi dậy. Xé thân áo băng cả chân và tay.

Gần sáng tôi về được đến nơi. Mọi người lo lắng nhìn bàn tay bàn chân tôi máu lem nhem. Tôi rất đau nhưng tỏ ra như không có chuyện gì.

“Đời lính là vậy”. Tôi buột miệng.

Tôi ngỡ ngàng, mình đã thốt ra những từ đó. Những từ cửa miệng quen thuộc ai cũng nói. Vậy mà với tôi khi lần đầu tiên nói ra, thấy ngạc nhiên và xốn xang. Phải chăng tôi tôi đã gan lỳ, tôi đã lớn lao hơn.

Địch bắn không ngừng nghỉ nhưng anh em đại đội 10 vẫn đào được hầm chiến đấu. Mọi người nằm đào. Chỉ có anh Hòa đào được tới đầu gối còn nữa đào được khoảng hai mưo'i phân và dồn đất lên đầu để làm bệ bắn.

Đến một giờ chiều địch mở cuộc tấn công ra chỗ đại đội 10.

Ba giờ chiều đại đội 10 bị xóa sổ.

Anh Hòa đại đội trưởng chết gục ngay tại hầm đang đào. Nửa người trên nằm sấp trên miệng hầm, nửa còn lại bị địch rút chốt an toàn quả lựu đạn đeo ở thắt lưng nên phần mông và ngang thắt lưng bị lựu đạn nổ tung bay mất. Tôi sờ vào ngực anh vẫn còn nóng. Người tôi như bốc lửa. Tôi chỉ huy anh em như một cán bộ tiểu đoàn.

Tôi bố trí cho đại đội 11 thay cho đại đội 10. Bảo anh em vận tải gom xác liệt sĩ vào một noi. Xong phần việc của mình, tôi đi tiếp về hướng tiểu đoàn bộ. Vừa rời khỏi trận địa nghe tiếng rên rỉ trong bụi rậm. Xác định là người của ta rồi. Tôi bò vào. Là anh Dư lính 2W cùng ngày nhập ngũ với tôi và một đồng chí bộ binh. Hai anh bị thưong lúc chiều và trốn vào bụi cây. Tôi dìu hai anh về tiểu đoàn.

Anh em vận tải đưa liệt sĩ của đại đội 10 về để ngay trong hầm chỉ huy tiểu đoàn. Nửa đêm tôi đi ra xem có khuôn mặt nào quen không. Tôi thèm thuốc. Tôi sờ vào ngực áo và túi quần các liệt sĩ. Trong túi áo một liệt sĩ có cái ví. Trong ví có ảnh cô bạn gái và một nhúm thuốc lá. Tôi trả bức ảnh lại vị trí cũ, moi hết ra các sợi thuốc. Tôi thầm thì với anh: Anh ơi anh chết rồi không hút thuốc được nữa. Tôi thèm quá cho tôi xin anh nhé. Tôi ngồi ngay đó quấn điếu thuốc hút một hơi dài.

Đại đội 12 hỏa lực biết đại đội 10 bị xóa sổ, các xạ thủ 12 ly 7, cối 82, Đ.K.Z đồng loạt nổ súng. Địch trong đồn chống đỡ không quá được một tiếng đồng hồ nháo nhác tháo chạy. Đại đội 11 xông lên.

Địch đang giữ một đoàn người dân. Lợi dụng lúc này địch trà trộn với người dân chạy vào hướng thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn xung phong cả ba mặt đường. Quân ta quân địch kéo dài hàng cây số. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho tôi đuổi theo đại đội 11 báo họ chặn đoàn người lại. Phát triển được hai cây số lại gặp ngay đồn địch nằm cạnh đường. Địch trong đồn bắn ra chặn đường. Sợ bắn nhầm vào người dân tiểu đoàn lệnh anh em rẽ phải hội ý chớp nhoáng. Hai đại đội tiếp cận, bao vây đồn địch. Sư đoàn 320 chia nhiều hướng đánh vào thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn 9 chúng tôi phải bám trụ và tiến công hướng bắc. Đánh vào đến đồi tròn thì kiệt sức.

Số quân tiểu đoàn giờ chỉ bằng một đại đội. Sư đoàn không còn người bổ sung. Chuyển sang đánh chiến thuật vây lấn. Căn cứ này toàn lính Park Chung Hee. Chúng tôi vây chặt vòng ngoài. Địch không vào được không ra được. Hai tháng cầm cự bắn tỉa. Đến tháng thứ ba trung đoàn 66 vào thay. Qua một đêm trung đoàn 66 làm chủ được trận địa. Tiểu đoàn 9 hành quân khẩn cấp về Gia Lai.

Hành quân được mấy ngày gặp trận mưa rào mát mẻ. Bốn tháng rồi chưa một ngày được nghỉ, được ngủ. Ai cũng thèm ngủ. Chân bước mà mắt ríu lại. Nhiều anh em vừa đi vừa ngủ. Đường trơn trượt. Ngã đoành đoạch hết người nọ tới người kia.

Đi qua một bệnh viện của sư đoàn tôi gặp anh Thọ. Bom cắt mất bàn tay trái, anh phải nằm viện dài ngày. Được gặp người làng mình trong hoàn cảnh này ngậm ngùi chảy nước mắt. Tôi nắm chặt bàn tay còn lại của anh: Nếu được ra Bắc anh nhắn với mẹ và em gái em là em vẫn khỏe, đang chiến đấu và chưa biết khi nào về.

16.

Sau chiến dịch Kon Tum tôi được đi học trường Quân chính B3. Cả tiểu đoàn chỉ có bốn người được lựa chọn đi học. Bốn người “có tác phong nhanh, nhận thức nhanh và tháo vát”.

Từ đon vị chúng tôi hỏi thăm đường về trường. Mùa mưa hai bên đường có nhiều thứ để ăn. Măng tưoi non rất nhiều. Đi ba ngày thì chúng tôi tìm được đến trường.

Trường Quân chính 3 đóng trên đất Campuchia. Nhiều người gọi là trường sĩ quan cầu lầy vì ở noi này rừng toàn lầy lội. Từ trường đến các đon vị bạn phải đi cầu khỉ. Nước phèn đỏ quạch. Không rửa, không lội được.

Học viên đợt chúng tôi đến cả tháng phải ăn sắn trừ bữa. Thế nên còn có tên gọi là sĩ quan lá sắn.

Tôi vào lớp C3, tức là lớp đào tạo trung đội trưởng. Trong lớp tôi trẻ tuổi nhất, và cũng nhỏ bé nhất.

Bảy ngày đến đây cả bảy ngày tôi phải đi gùi đạn, gùi sắn, chưa được ăn bữa cơm nào, chỗ ở cũng là chui xuống hầm, quần áo vẫn rách nát. Thiếu thốn không khác gì ngoài tiền tuyến.

- Em về đơn vị đây. - Tôi nói với một người anh cùng quê là giáo viên của trường.

Sao vậy?
Em tưởng đi học sung sướng chứ khổ thế này thà ở ngoài chiến trường đánh còn có ích hơn.

Anh hẹn tối mang võng sang chỗ anh rồi trò chuyện tâm sự.

Tối, tôi sang bên chỗ anh.

Em đừng nghĩ về tuyến trước nhanh tiến hơn hay ở đây đi học là khổ.
Em chẳng nghĩ gì nhanh tiến chậm tiến. Em chỉ mong hết chiến dịch để về. Đi lâu quá rồi.
Anh đây này, đi từ năm sáu hai, hơn mười năm rồi chưa về nhà.

Vào đây đánh nhau vài năm, người ta tổ chức trường này thì anh là thế hệ học viên đầu tiên. Học xong anh ở lại làm cán bộ khung.

Nói cho em biết điều này, ở đây có cái hay là tránh được bom đạn.

Công việc là đi làm nương làm rẫy, tăng gia sản xuất, vài ngày lại đi học quân sự, học chính trị, tiếp thu thêm các đường lối chính trị, các vấn đề lịch sử.

Em nghe anh, cứ ở lại trường được ngày nào hay ngày đó. Tránh được bom đạn ngày nào hay ngày đó. Bao nhiêu người đang tìm cách để lùi dần ra tuyến sau mà không được. Mình được đi học lại muốn về cầm súng.

Em ạ, chiến tranh ác liệt nhưng ta có cách ta vẫn giữ được mình.

Nghe anh phân tích đầu óc tôi sáng tỏ ra đôi chút. Có đôi câu muốn nói lại nhưng nghĩ mình bậc em tốt nhất lẳng lặng mà nghe. Ví dụ như tôi muốn hỏi anh: Thế những người đang giữ chốt trong kia là sao anh? Bọn em nói với câu chốt là chét, lên chốt là lên chỗ chết. Em đã bao nhiêu phen tưởng chết ở trong chốt rồi.

Giờ em thiếu gì để anh giúp? - Anh cắt ngang suy nghĩ tôi.
Em giờ cái gì cũng thiếu. Bút giấy cũng không có. Bụng khi nào cũng đói.

Một tháng sau anh chuyển lên trên dạy. Chúng tôi không còn gặp nhau. Sau này về quê tôi biết anh đã nghỉ hưu, cấp bậc cao.

17.

Trận đánh thứ bốn mưoi ba.

Tiểu đoàn đã nổ súng từ năm giờ sáng, mũi chúng tôi chịu trách nhiệm mở cửa. Tôi hô tất cả ra khỏi hầm, chạy thẳng vào đồn địch.

Ra trường tôi về làm trung đội trưởng trung đội mũi nhọn phải ra chốt tuyến đầu.

Tôi vừa đánh vừa quan sát anh em.

Anh Huỳnh và Quý đang giữ khẩu súng M79 là hỏa lực của trung đội. Sao giờ này hai người vẫn đang loay hoay trong hầm. Tôi chạy vào hầm.

- Báo cáo, đồng chí Quý bị thưong.

Bị ở đâu?
Bị ở đầu.

Nhìn lướt qua khuôn mặt Quý chỉ thấy có một vết máu khô giống như con ruồi đậu trên trán. Thanh niên khỏe mạnh bị thế nhằm nhò gì. Tôi cầm cổ áo Quý lôi ngay lên khỏi hầm.

Tính trốn hả. Anh em chết hàng loạt trên rồi kìa.

Quý vẫn chần chừ.

Tôi táng một bạt tai. Đạp tiếp vào đít.

- Xung phong mau để yểm trợ anh em.

Quý buộc phải lao ra.

Chiếm được chốt chúng tôi về hầm nghỉ. Lúc này tôi mới biết đúng là Quý bị một mảnh đạn M79 nổ trước cửa hầm găm vào trán. Mảnh đạn găm lại máu không chảy ra được nên tôi đã phớt lờ.

Quý được cho ra tuyến sau. Lên viện tiểu đoàn rồi viện sư đoàn. Mảnh đạn xuyên qua xương xốp vào xương cứng. Nghe nói phải đục sâu một phân vẫn chưa lấy ra được.

Tôi day dứt, ân hận.

Đơn vị tiếp tục phát triển về phía trước, lao vào các chiến dịch lớn, tôi không còn biết tin gì về Quý.

Thông tin vê Quý tôi năm được khi đó là ở xã Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh, nhập ngũ năm 1972.

Sau năm 1976 trở về quê tôi luôn nghĩ đến việc đi tìm người đồng đội cũ xem vết thương sau đó thế nào, cuộc sống hiện tại ra sao. Và nói với người ta lời xin lỗi.

Khoảng cách chừng hai trăm cây số vậy mà cũng khó khăn. Cứ lần lữa năm này qua năm khác rồi hàng chục năm vẫn chưa làm được. Hàng chục năm trong lòng tôi nặng nề chuyện cũ.

Qua người nọ người kia tôi liên lạc được với hai cậu cùng đại đội ở Cẩm Xuyên. Bằng tuổi nhau nhưng vì tôi là đại đội trưởng nên tới giờ họ vẫn gọi tôi là anh. Tôi nhờ họ sang bên Kỳ Anh tìm thông tin về Quý.

Cẩm Xuyên sang Kỳ Anh tưởng gần vậy mà cũng hết năm này tới năm kia tôi gọi đến cả hai đều trả lời vẫn chưa tìm được. Chuyện tôi nhờ cả hai đều ghi nhớ. Ghi nhớ vậy thôi chứ chưa ai một lần bỏ buổi ra đồng để làm việc đó cho tôi.

Người bạn ở Cẩm Mỹ thả trâu ở ngoài rừng bị lạc mất trâu. Con trâu đi lạc sang bên đất Kỳ Anh. Bạn sang đất Kỳ Anh dắt trâu về tiện thể thực hiện trách nhiệm thủ trưởng cũ giao.

Ông Quý vẫn còn sống, ở trên Kỳ Thượng.

Vậy là yên tâm đi thăm rồi. Tôi sốt ruột gọi cho hai người ở Cẩm Xuyên sắp xếp thời gian rồi cùng đi. Từ khi tôi giục giã cho tới khi đi được thời gian cũng phải tới hai năm. Lần nào cũng có lý do để trì hoãn.

Không chần chừ được nữa tôi quyết định lên đường.

Tôi đến đầu ngõ gặp một đứa đang gồng gánh ra đồng gặt lúa, một đứa ở cách đó chục cây số đang đi làm cá. Lệnh phải đi. Lúa không gặt hôm nay thì để mai. Cậu ta phải nhờ người đi gặt giúp bởi nếu không làm kịp sợ trâu bò phá.

Ba thằng lên xe máy vào Kỳ Anh.

Đến ngã ba đường 12 dừng lại hỏi thăm đường về Kỳ Thượng. Cô gái đi đường bảo các bác cứ theo em. Cô giới thiệu mình là cô giáo nên tôi hỏi có biết ông Quý là thương binh không cô lắc đầu. Đến xã Kỳ Thượng cô chào chúng tôi đi về hướng khác.

Kỳ Thượng 1 hay Kỳ Thượng 2. Kỳ Thượng nào cũng có người tên Quý. Người ta trả lời rồi đi tiếp.

Ba anh em đứng bên đường chờ. Một thanh niên chở ông già ngồi sau cầm nạng đoán chắc là thương binh. Giờ hỏi thăm là trúng rồi.

Ông già chỉ cho chúng tôi đi về Kỳ Thượng 1 có ông Quý thương binh loại 2 bị chấn thương sọ não. Ngôi nhà họ ở tít trong khu rừng giáp với Quảng Bình.

Chúng tôi tìm được đến nơi. Người con trai bảo các bác chờ rồi đi chở cha về.

Ngôi nhà cũ tạm bợ. Chúng tôi tìm xem có bức ảnh của thằng Quý hồi trẻ treo trên tường không nhưng không có. Nằm trên giường là người vợ của Quý nghe nói bà bị bệnh đã nhiều năm.

Ông Quý không nhận ra ba chúng tôi là ai.

Không nhận ra là ai nhưng bạn chiến đấu gặp nhau thì cứ phải nhậu đã. Con trai ông mang về một rổ trứng vịt lộn và một thùng bia.

Trải chiếu ra ngồi uống bia ôn chuyện chiến trường. Kể đến trận đánh thứ tư thứ năm gì đó ông Quý mới nhớ ra được tôi là ai. Đang ông ông tôi tôi

Quý đột ngột đổi xưng hô em và anh, em và thủ trưởng.

Quý nói, em thì lại ân hận vì anh em chết bị thương gần nửa rồi mà mình vẫn ôm cây M79 yểm trợ ở trong hầm.

Lần đầu tiên sau hơn bốn mươi năm anh em mới được ngồi với nhau chuyện không sao dứt được. Tới ba giờ sáng rủ nhau ra khe tắm. Cách nhà Quý nửa cây số có một con suối chảy từ trong Quảng Bình ra. Thằng dọi đèn pin thằng cầm đèn hoa kỳ ra suối cởi hết áo quần đằm mình giữa khe tưởng mình vẫn là thằng lính năm nào được dịp ra suối lấy nước tranh thủ nhúng ướt áo quần rũ sạch bùn đỏ cả tháng lăn lê hầm hào ở Kon Tum. Chúng tôi hét, chúng tôi cười, chúng tôi bảo mình là những thằng điên. Hai bờ khe là bãi đá hệt như bãi đá ngày xưa tôi ngồi kỳ cọ bộ quần áo của đồng đội đã hy sinh. Cười cười mà vẫn không ngăn được hàng nước mắt.

18.

Mùa mưa không đánh lớn. Tập trung bám chốt cho vững và kết hợp đánh nhỏ lẻ.

Bảy giờ tối ngày 6 tháng 6 năm 1974 tôi được gọi lên ban chỉ huy đại đội nhận nhiệm vụ sáng ngày mai trung đội phải có mặt tại đoạn đường 5B phục kích đánh địch đi chi viện.

Lúc này là chín giờ đêm, từ ban chỉ huy về trung đội tôi chốt hơn một cây số. Đường rừng rậm, không đèn không đuốc, trời tối thui. Về đến nơi, anh em người đang gác người đang thức. Tôi gọi tất cả dậy chuẩn bị chiến đấu. Mười một giờ đêm xuất kích.

Ngoài tôi ra không ai biết hướng đi. Tôi cũng mới chỉ biết qua sơ đồ, ghi nhanh trong trí nhớ. Chưa ai đặt chân đến vùng đất này. Mưa nắng thất thường tình hình địch thay đổi nên địa điểm chúng tôi cũng di chuyển liên tục. Tôi đi trước, theo sau mười tám anh em. Vượt qua hai ngọn đồi, hai khe suối. Đến đúng địa điểm là ba giờ sáng. Anh em đào hầm, lắp đế cối. Tôi cùng ba tiểu đội trưởng quan sát địa hình, lên phương án đánh địch cho từng tiểu đội và từng người. Nhắc anh em không được ngủ. Phải đặt tai, mắt vào các hướng. Lúc này chắc đã hơn năm giờ sáng. Kiểm tra tiểu đội hỏa lực xong tôi ôm súng dựa vào gốc cây to ngủ thiếp đi.

Đôi tai lính nhắc tôi tỉnh dậy rất nhanh sau đó. Trời đã sáng. Vừa mở mắt đã thấy choáng. Trận địa quá trống. Anh em ẩn nấp sau lùm cây mua cây dại che được phần đầu thì nhoài ra ngoài phần chân. Đồn địch cách nơi chúng tôi chưa tới nửa cây số. Chỉ cần ngồi xổm là địch phát hiện ra và đội hình bị xơi gọn ngay tức thì. Tôi mất bình tĩnh nhưng không để lộ ra ngoài cho anh em biết.

Chín giờ trưa anh nuôi cũng đem cơm đến được tới nơi. Tôi nhận cơm từ anh nuôi. Trên người một khẩu AK, ba băng đạn 120 viên, bốn quả lựu đạn, dao găm, bình nước và toàn bộ số cơm của anh em. Tôi trườn đi mang cơm cho từng người. Phát hiện ra tiếng xe ô tô. Tôi trườn lại chỗ anh Hường tiểu đội trưởng đang ngáy ầm ĩ. Chờ địch lâu quá anh đã ngủ say, tôi phải lay mãi anh mới tỉnh.

Chiếc xe CMC dừng lại, toàn bộ lính trên xe nhảy xuống, đi thẳng tới trước mặt đội hình chúng tôi đã bố trí. Đúng như kế hoạch. Tiếng súng tôi phát hỏa. Tôi hô xung phong và kêu gọi địch đầu hàng.

Trận đánh xong rồi mà anh em ai cũng như mất thăng bằng. Giải tù binh và rời khỏi trận địa ngay. Đi khuất vào rừng một lúc mới trói tù binh và nghỉ. Nhận nhiệm vụ bất ngờ từ đêm qua, cơm trưa anh nuôi mang đến chưa kịp ăn. Anh em không ai bị thương, đạn tốn ít, bắt được địch làm tù binh. Tôi được ca ngợi là người chỉ huy trung đội giỏi của năm.

Ba ngày hôm sau tôi giẫm phải quả mìn địch cài sẵn lúc trước. Cỏ tranh cây cối đã mọc che nên không phát hiện ra. Đây là lần thứ ba bị thương nặng. Phải vào viện nằm ba tháng. Ra viện, bước đi chưa vững đã phải nhận nhiệm vụ lên chốt. Chân tập tễnh leo núi đá dốc khó chịu vô cùng.

Cao điểm ngày nắng ấm đêm thì rét buốt. Quần áo mỗi người được một bộ dài tay rách tả tơi. Không chăn không màn.

Ngồi trên chốt căng thẳng, bứt rứt. Ăn không được ngủ không yên. Thần kinh căng như dây đàn. Cơm anh nuôi đưa cơm lên mỗi người chỉ ăn được một bát. Dưới chân đồi địch bộ binh. Trên đầu pháo mười lăm phút lại nã. Bom bỏ không theo quy luật nào.

Cơm thừa, tôi bảo anh em mang đi phơi để dành ăn vào lần sau. Phơi trong bóng râm chứ không dám phơi lộ liễu ngoài trời nắng. Đêm đến một đàn chuột tới ăn phần cơm. Tôi làm bẫy bắt được chục con chuột to. Hỏi anh em có ăn thịt chuột không. Đã từng nghe thịt chuột ăn được nên ai cũng muốn thử.

Những con chuột được thui lên, làm thịt, chặt miếng rán mỡ. Mỡ tôi xin được từ anh nuôi đại đội. Anh em hào hứng ngồi chờ thưởng thức.

Sáng sớm mai tôi đi ra kiểm tra vọng gác. Gió thổi vào vọng gác thứ hai. Bình và Trị đang đứng chốt nói: Bọn em thấy thối mùi thịt người. Tôi dừng lại. Đúng là mùi thối rất quen.

Tôi lần theo lối cỏ tranh ngã rạp, cách hào mười mét nhìn thấy rất nhiều phân chuột. Và cạnh đấy là năm xác chết trơ ra đầu lâu và hình thù những ngón tay ngón chân. Dấu chuột moi còn rất mới.

Hôm bàn giao chốt đơn vị bạn có nói cách đây hai tuần họ nổ súng diệt một tiểu đội địch đi tuần tra. Xác địch phơi đấy, đơn vị sợ thối chỉ lấp sơ sài. Những con chuột đã sục tìm.

Lính mới gặp cảnh vậy thấy ghê. Vài người nôn ọe. Ở rừng, đánh chục trận trở lên thì quen hết.

19.

Đơn vị chuyển đến một khu vực bí mật, gần đường 14. Đang đào hầm trú ẩn thì nghe cán bộ nói hôm nay là ngày ba mươi tết. Cán bộ biết vì họ được mặt trận bổ sung cho cuốn lịch tay. Lính thì không biết gì ngày tháng. Khu vực này không có dân, không giao liên, chỉ có địch và bom đạn.

Đào xong hầm trú ẩn anh em đào thêm hầm nửa chìm nửa nổi làm hội trường đón tết.

Chiếc bàn là những cây gỗ nhỏ ghép lại. Một cành cây to nhiều cành để gắn hoa. Ảnh thờ Bác Hồ là trang đầu cuốn lịch. Que củi khô đốt lên làm hương. Nước lã làm rượu. Một đĩa muối đặt bên cạnh là tượng trưng thức ăn.

Tiết mục hái hoa dân chủ.

Tôi mở mảnh giấy ra. Đồng chí Ngọc và đồng chí Điển phải cười đủ 36 điệu cười đàn ông.

Hai người bắt tay nhau và cười.

Ha ha hi hi hô hô hê hê hơ hơ... Mới được sáu điệu mà anh em đã cười nghiêng ngả. Phấn khích, chúng tôi cười không dừng được. Chủ tọa không đếm được bao nhiêu là điệu nữa.

Bỗng khuôn mặt chủ tọa nghiêm lại. Không được cười nữa. Ha ha ha hô hô hô hahahahahahahahhaha. Tôi không thể nào nào nín được nữa hôhôhôhôhooo.... Ai đó bịt mồm tôi lại. Đuốc tắt. Báo động máy bay địch.

Mười phút trôi qua. Tiếp tục anh em. Đồng chí nãy cười tới điệu thứ mấy rồi rồi nhỉ.

Lặng im.

Rồi tiếng khóc. Tiếng khóc nhớ phút giây đón giao thừa ở nhà với mẹ. Tiếng khóc vì nhớ những người bạn đã chết.

Đứa nào khóc tao kỷ luật. Chẳng ai để ý lời chủ tọa nữa.

Thế là xong cái tết thứ tư ở núi rừng Tây Nguyên.

20.

Sư đoàn 320 truy kích và đánh chặn địch rút chạy khỏi Tây Nguyên về Tuy Hòa theo đường 7.

Mìn nổ sập cầu. Địch không qua được buộc phải lùi lại. Người dân di tản không còn đường đi buộc phải quay về. Nhưng địch không lùi lại và dân cũng không quay về. Đoàn xe hàng năm hàng bảy dồn ứ lại. Dòng người hỗn loạn. Những chiếc xe trúng bạn bốc cháy. Xác người nằm dưới xác xe. Tiếng trẻ thơ khóc lạc gia đình. Tiếng gào thét tuyệt vọng.

Dân kéo nhau từng toán chạy vào rừng tìm hướng về đồng bằng. Chạy thoát Việt cộng. Ở lại Việt cộng hãm hại rồi cũng chết. Việt cộng là con thú ác. Việt cộng sẽ mổ bụng moi gan. Người dân đã được tuyên truyền như vậy.

Chạy thoát Việt cộng. Chạy ra đường bảy chạy về đồng bằng, chạy về cửa sông chạy ra cửa biển. Chạy đi tìm cửa sống.

Số người chết không thể tính được. Chết đói chết khát chết vì đạn lạc vì chết trúng bom.

Xác người phơi nắng. Xác người bị xe tăng nghiền nát bốc mùi. Người dân khát nước không biết hoặc không dám đi xuống suối tìm nước vì sợ lạc. Người Ê đê đưa nước ra đổi vàng. Một bù nước đổi một chỉ vàng.

Một em bé lấm lem bùn đất. Còn bi đông nước tôi đưa cho em. Tôi phải chạy theo đà phát triển của chiến dịch.

Vượt qua Phú Bổn cầu Gãi vào ban đêm. Cả tuần đói khát mệt lử gặp nước ai cũng mừng. Gục mặt xuống mặt nước. Lấy mũ cối múc lên tu ừng ực. Nhanh tay đóng đầy những bi đông.

Buổi sáng mai ra nhìn chỗ mình đêm qua uống nước xác chết ngập tràn xác chết mắc lại bờ kè. Đi tiếp đến đến con kênh 37 gần dốc Mồng Mồng xác chết cũng nổi đầy như vậy.

Hôm qua chúng tôi quyết định thả 20 tù binh bắt sống từ trận đánh chặn binh đoàn 45 buổi chiều hôm trước. Bảo họ cởi bỏ quân phục, vứt súng rồi đi về hướng Buôn Mê Thuột.

- Xin cứu giúp vợ tôi.

Người đàn ông nhìn anh Huỳnh cầu khẩn. Anh Huỳnh y tá đại đội theo sát bên tôi. Vai anh đeo cái xắc có hình chữ thập.

Người đàn ông đang dìu người đàn bà. Họ không còn sức để chạy nữa. Người đàn bà đã lả đi bên người đàn ông, quần chị ướt sũng.

Họ cùng đưa người phụ nữ vào bìa rừng, tách khỏi đám đông. Chị bị vỡ ối, băng huyết. Chị đã cố chạy theo chồng.

Cô ấy bị sẩy rồi. Anh Huỳnh nói.

Anh tiêm thuốc cầm máu. Tiến hành từng bước giữ mạng sống cho người mẹ.

Người chồng trút bỏ bộ quần áo và rút khẩu súng đang trong người ném ra xa.

Hai người hôm qua còn chĩa súng vào mặt giờ ngồi với nhau trong tình cảnh này. Người vợ chưa hồi sức anh Huỳnh vẫn chưa thể bỏ đi. Anh đã bị lùi xa đơn vị một quãng dài.

Chúng mày đã nói với nhau chuyện gì khi đó?

Tối hôm sau đang ngồi ăn cơm anh Tiến hỏi. Đơn vị chúng tôi lúc này đang trú lại tại một cánh rừng chờ lệnh.

Anh Huỳnh chưa kịp trả lời. Đạn trên trời bắn tung tóe xuống trúng giữa mâm cơm. Anh Tiến bị đứt cánh tay đang cầm đũa.

21.

Đêm đầu tiên đến Tuy Hòa. Chúng tôi ngủ ở nhà dân. Đó là gia đình có người con gái đang đi bộ đội ở địa phương. Yên tâm rồi, gia đình cách mạng. Chúng tôi nói với nhau.

Đêm xuống tôi mở đài National cho cả nhà nghe. Ông già nghe đài Hà Nội đang đưa tin chiến dịch. Phấn khích quá ông đứng dậy nói to. Đúng, nói thế là đúng.

Nửa đêm đang ngủ say tôi nghe nhột. Mở mắt ra thấy bà mẹ đang cầm cây đèn hoa kỳ. Bà nắn tay chân từng người. Tôi mở mắt ra, giật mình. Má, má làm gì thế. Bà cũng giật mình. Má nghe họ tuyên truyền rằng bảy thằng bộ đội cộng sản leo lên một cành đu đủ không gãy nên má đi xem chân cẳng bộ đội thế nào, có đúng như thế không.

“Bảy thằng bộ đội cộng sản trèo lên cành đu đủ không gãy” - câu đó chúng tôi từng nghe nhưng cứ nghĩ là chuyện tếu anh em lượm đâu về kể cho vui. Đêm nay nghe bà mẹ Tuy Hòa nói tôi mới biết là có thật.

Đến chiều hôm sau chúng tôi ra cửa biển tắm thì có một đàn con nít và các bé gái tầm cỡ mười mười ba mười bốn tuổi chạy theo. Chúng tôi ngượng không tắm được. Tôi nắm tay một cô bé, hỏi chạy đi theo làm gì. Cô bé nói rằng, đi xem đuôi bộ đội cộng sản, bộ đội cộng sản có lông và đuôi giống khỉ.

Bấy giờ chúng tôi mới biết người dân ở trong này được tuyên truyền những thông tin rất đáng sợ về bộ đội ngoài Bắc vào. Nhiều người không dám nhìn thẳng mặt bộ đội. Họ cúi đầu và dạ thưa mỗi khi bộ đội hỏi câu gì.

Tiểu đoàn giao nhiệm vụ chúng tôi vây một ngôi làng. Các trung đội chốt chặt tại các ngã ba, ngã tư. Địch vào làng nếu không lẩn trốn được đều cất súng và lấy đồ của dân mặc.

Người dân nấu cơm và chuẩn bị nhiều đồ ăn ngon cho bộ đội. Đi qua cánh đồng thấy hai chị gánh nặng đi theo. Các chị gánh bánh cuốn mang cho bộ đội ăn bữa chiều.

Buổi tối có cơm gạo trắng, vịt nấu măng. Nhà góp gạo nhà góp thức ăn. Có nhà mang rượu bia đến. Thủ trưởng nhắc nhở anh em, trong hoàn cảnh như thế này, tốt nhất chúng ta cứ phải đề phòng.

Bia, rượu dọn ra chúng tôi không dám uống vì sợ địch cải trang thành người dân bỏ thuốc độc.

22.

Đơn vị lên xe về Tây Ninh. Hành quân bộ xuống Củ Chi. Người dân bí mật dẫn cả sư đoàn vào làng. Ngay giữa lòng địch mà sao dân ở đây vẫn sinh hoạt bình thường. Ban đêm đoàn điện ảnh cơ động hát hò biểu diễn dưới vòm cây. Buổi trưa anh em mắc võng nằm đung đưa giữa các cây xoài.

Nhiệm vụ trên giao sư đoàn 320 phải đánh căn cứ Đồng Dù, cánh cửa đi vào thủ đô Sài Gòn.

Đêm trước chiến dịch chị chủ nhà nói nhỏ, cộng sản đánh vào Đồng Dù lần này nữa là lần thứ chín rồi đó. Các năm trước đánh được mấy giờ là chúng nó lấy lại, lần nào lâu nhất là được một ngày một đêm. Cộng sản hy sinh ở đó quá nhiều. Dân ở đây nhờn rồi giờ thấy đánh nhau ở Đồng Dù là đi hôi của.

Bảy giờ sáng ngày 28 tháng 4. Cán bộ trung đội trở lên có mặt tại tiểu đoàn bộ để nhận nhiệm vụ trên sa bàn. Sa bàn làm bằng đất giữa bãi hoang ngoài đồng ruộng. Toàn bộ căn cứ Đồng Dù được rút nhỏ lại chừng ba mươi mét. Bao gồm: 120 lô cốt vòng ngoài; 17 lớp hàng rào; Hai cổng chính; 4 tuyến giao thông hào vây quanh; Phía giữa đồn có đường rải nhựa để địch đi lại các kho; Có 4 khu gia đình cách nhau 900m, ban chỉ huy sư đoàn địch đóng giữa.

Đại đội 2 là đại đội chủ công nhận nhiệm vụ mở cửa.

Trung đội của tôi là trung đội chủ công được phân công cắm cờ lên nóc hầm sư đoàn chỉ huy sư đoàn địch.

Hôm nay tôi quyết định mặc chiếc áo mới. Tôi linh cảm có thể đây là lần ra trận cuối cùng.

Trận đánh cuối cùng? Tôi sẽ chết hay sau trận này là kết thúc? Tôi làm sao biết được. Chỉ cảm thấy một trận đánh kịch liệt trước mắt.

Nhà thơ Tố Hữu vào Tây Nguyên thấy anh em bộ đội quần áo rách nát, bẩn thỉu, về ngoài bắc ông đề nghị Bộ hậu cần cấp cho mỗi lính một bộ quần áo. Là chúng tôi nghe trên báo xuống vậy. Nói là một bộ nhưng thực tế mỗi người được một chiếc.

Người có áo thì không có quần. Tôi được cấp chiếc áo. Tôi gọi đó là áo nhà thơ.

Hôm nay tôi mặc áo nhà thơ ra trận đánh lớn.

Ba giờ chiều ngày 28 tháng 4 lệnh xuất kích.

Bầu trời như sắp có cơn mưa lớn vì đen ngòm khói bom đạn pháo. Ba tiếng đồng hồ sau lại thấy đạn của ta như bó đuốc bay thẳng vào đồn địch. Máy bay địch thả pháo sáng và ném bom ở các hướng mà quân ta đang nổ súng. Pháo tầm xa phản lại vùng pháo ta vừa bay lên. Cứ thế hai bên như thách thức ai mạnh hơn, súng ai to hơn, ai gan lỳ hơn.

Chín giờ đêm chúng tôi lọt vào rừng cao su gần đồn địch và được bố trí nằm ngay ở góc vườn nhà thờ. Qua nhà thờ là tới đường 14, cách hàng rào thứ nhất 15 mét, cách đại đội 2 chừng 200 m.

Xong đội hình mai phục có lẽ tầm hai giờ sáng. Tôi cùng anh Hùng đại đội trưởng và anh Nhuần chính trị viên đi kiểm tra các trung đội một lượt. Đi vào các khu vườn của dân ngay phía sau dãy phố mà không có một tiếng chó sủa. Yên tĩnh lạ thường.

Đúng ba giờ sáng đại đội 2 điểm hỏa. Quả mìn mở cửa của lớp hàng rào thứ nhất bung lên. Tiếp tục lớp thứ hai, lớp thứ ba.

Vài phút sau địch đã xác định được hướng tấn công của ta. Từ trong đồn hỏa lực bắn ra. Hỏa lực đại đội 4 chi viện cho đại đội 2 không thấm vào đâu. Đại đội 2 bị gián đoạn lâu mới nổ tiếp được một quả.

Tôi bảo anh em phải dán mắt vào hai hướng đường nếu địch đến là nổ súng. Vừa chỉ huy anh em ở trung đội vừa lắng tai nghe về hướng đại đội 2.

17 lớp cửa mở. Giờ đã chín giờ sáng mà đại đội 2 mới mở đến lớp thứ 9. Với kinh nghiệm mở cửa tôi biết đại đội 2 bị thương vong nhiều.

Gần mười một giờ trưa, ông Cẩn chính trị viên trưởng của tiểu đoàn và anh Năm đại đội phó đại đội 1 tiến lại hướng chúng tôi. Lúc này lẽ ra ông Cẩn phải ở ban chỉ huy tiểu đoàn chứ sao lại đến tận trung đội tôi?

Ông Cẩn ra hiệu tôi lại gần hội ý. Ông nói: Bây giờ đồng chí Ngọc phải tập hợp anh em lại và kết nối bộc phá để mở cửa phụ nhằm thu hút lực lượng địch về phía mình để đại đội 2 dễ hoạt động.

Tôi nhận nhiệm vụ. Phân công mỗi tiểu đội kết cho được ba quả bộc phá. Yêu cầu một quả phải đủ dài 1.5m. Kết xong tôi sẽ mở lớp hàng rào đầu tiên.

Chín quả phải mở được chín lớp. Còn hỏa lực bám sát anh em. Khi anh em ôm bộc phá lên mở cửa phải kiềm chế hỏa lực địch.

Đang ngồi kết bộc phá thì anh Năm và ban chỉ huy đại đội 1 lệnh cho trung đội tôi phải dừng động tác mở cửa và ngay lập tức phải vượt đường để chiếm lấy mặt đường phía đông đồn. Trong đồn địch đã kéo cờ trắng.

Tôi hô anh em tiến. Rời khỏi vị trí được năm mưoi mét thì một khẩu đại liên bên nóc nhà thờ T ân Qui bắn xuống cản đường đội hình. Tôi lệnh cho anh Ca là xạ thủ B41 giập ngay hỏa lực địch. Tiếng nổ ầm, hỏa lực địch tắt và các mảnh vỏ tường xi măng nhà thờ bay xuống đầu chúng tôi đang tiến. Hỏa lực trong đồn địch bắn ra làm cho quân ta không tiếp cận được mặt đường dù chỉ còn năm mưoi mét nữa.

Tôi giật khẩu B41 của anh Ca.

Vai trái dí sát tường nhà thờ vai phải là khẩu B41 tôi lấy thước ngắm chuẩn xác. Nín thở. Bóp cò. Quả B41 lao thẳng vào miệng lô cốt địch đang nhả đạn đỏ lừ về hướng quân ta. Cột khói trắng dựng lên.

Tôi tiếp tục hô tiến. Một chiếc xe bọc thép từ trong đồn vụt qua. Anh em bắn vuốt đuôi.

Sao không nổ súng? Anh Ca nói: Phía sau lưng quân ta nằm dày, phía trước là anh em trung đội.

Tôi thầm nghĩ, ta bị địch nghi binh rồi. Kéo cờ trắng mà chúng vẫn nổ súng không ngừng. Tất cả chúng tôi ôm súng lăn qua đường.

Bầu trời phố Tân Qui và căn cứ Đồng Dù mù mịt khói đen. Tiếng nổ rầm trời.

Giữa bãi tha ma có một con đường mòn chạy dọc từ cổng đồn ra phía đông. Bị quân ta chặn đánh địch nhằm hướng này chạy thoát. Chúng tôi bám trụ tại đây từ trưa và giờ đã gần hết buổi chiều. Vừa đánh vừa lấn tới phía cổng chính.

Bãi tha ma. Từng ngôi mộ làm điểm tựa cho cả ta và địch.

Trước mũi súng tôi xuất hiện một người con gái trẻ, tóc ngắn, tay cắp nón tay xách túi. Cô gọi to tên ai đó. Tôi đoán cô đi tìm người yêu hoặc chồng đang đâu đây quanh đồn địch. Cô không biết mình đang đi giữa làn đạn ta và địch.

Cô kia nằm xuống hoặc ra khỏi ngay trận địa. Tôi quát to.

Một cậu lính chạy lại: Báo cáo anh, ta bắt được thêm sáu mươi tù binh giờ phải làm sao?

Không còn đủ dây để trói nữa. Tôi lệnh: Lột hết vũ khí, giày tất, quần áo rồi đẩy xuống hố bom, cho hai thằng gác.

Tôi phát hiện một tốp địch nấp sau ngôi mộ. Lệnh cho xạ thủ B40. Xạ thủ bắn ba quả đều trượt. Vì địch có mô đất trên mộ che chắn.

Bảo anh em yểm trợ, tôi vòng sang trái. Lướt qua bụi cây bị chúng phát hiện ra. Viên đạn AR15 bắn trúng ngực. Tôi gục xuống giây lát.

Biết mình chưa chết, tôi lấy lại tinh thần. Giờ sao? Bò quay trở lại thì không đủ sức. Mà trúng thêm đạn cũng toi luôn. Tôi lấy lại tư thế nằm bắn. Nhìn thấy mấy chân địch thò ra. Lúc này chúng nó chú ý đến anh em đang nổ súng yểm trợ cho tôi.

Tôi nín thở bóp cò. Hai phát liên tục. Một thằng lăn ra khỏi điểm tựa. Tôi hô to: Hàng thì sống chống thì chết. Bắn luôn hai phát. Hô tiếp: Bỏ thì sống chống thì chết. Bắn thêm hai phát. Hô tiếp. Ba cái đầu nhô lên, sáu cánh tay giơ cao, từng đứa đứng dậy.

Máu trong ngực tôi đang phun ra phía sau lưng. Nếu đứng dậy có thằng phát hiện ra tôi trúng thương sẽ bắn trả. Bắn trả tôi chết chắc.

Tôi tư thế ngồi bắn. Tay ra hiệu ba đứa lại gần mình.

Giơ tay lên. Bỏ súng xuống. Lại đây!
Cởi giày. Cởi quần áo!

Tôi bắn hai phát xuống đất, trước mặt chúng.

Thưa anh, bọn em có một thằng bị thương.
Một thằng băng bó cho thằng kia. Một thằng lại đây.

Một thằng tiến lại sát trước mặt tôi.

Mày ngồi xuống. Giơ hai tay lên.

Một tay tôi cầm súng kề dưới nách nó. Một tay tôi vịn vai nó đứng dậy. Lúc này chúng mới biết tôi bị thương.

Tôi nghe rõ tiếng máu mình đang chảy re re sau lưng. Áo mới mặc chưa thấm mồ hôi lần nào, máu chưa ngấm được vào sợi vải nên trôi theo lưng đọng thành cục nằm giữa và một bên thắt lưng.

Cõng tao lại đằng kia.

Thằng to khỏe cõng tôi. Hai thằng kia dìu nhau đi sau. Bốn chúng tôi đi giữa tiếng đạn không phút nào ngơi giữa ta và địch. Hai bên đang giao tranh giữ dội. Thằng cõng tôi run lẩy bẩy.

- Đi đi, mặc xác nó. - Tôi cố hết sức lên giọng.

Tôi đang kiệt sức dần. Đầu óc choáng váng. Thấy nổ đom đóm mắt nhưng vẫn giả vờ mình không vấn đề gì.

Đi thêm hai mươi mét tôi thấy như không thở được nữa. Tôi thều thào. Mày đứng lại. Nó đứng lại và tôi tụt xuống khỏi lưng, tìm một tư thế khác dễ thở hơn để đi tiếp.

Tay trái bá vai, bụng dựa vào lưng và súng vẫn để nguyên dưới nách nó.

Tay phải luôn để ở vị trí nòng cò, lê xuyên từ nách trái sang nách phải của nó. Khẩu AK báng gấp của Tiệp mới cứng, vừa nhẹ vừa chính xác. Khẩu súng này tôi mới lấy được của địch.

Hai mươi phút sau chúng đưa tôi về đến tận nơi anh em đang nổ súng.

Buổi chiều, khi đến bãi tha ma tôi vừa nổ súng vừa đảo mắt quan sát xung quanh. Phản xạ của lính trinh sát khi đến một địa hình mới. Tôi thấy cách chừng ba trăm mét có nhà chòi của dân giữ dưa hấu.

Tôi nói với anh Quyền cho người lại nhà chòi tháo một đòn tay làm đòn khiêng tôi về đon vị quân y. Và bảo anh Hường áp tải hai thằng tù binh khỏe nhất đang ngồi dưới hố bom lên khiêng tôi.

Tôi bàn giao nhiệm vụ cho anh Quyền và ba tiểu đội trưởng là Bình, Tưởng, Hùng. Dặn họ cố gắng bắt liên lạc với ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn. Ban chỉ huy đại đội bị lạc khi đi dọc đường phố Tân Qui. Một mình tôi chỉ huy cả bốn trung đội.

Tôi nghĩ mình sẽ không qua khỏi. Muốn nói nhiều hon nữa. Nhưng rồi ngất xỉu khi nào không biết.

Lúc tỉnh lúc mê tôi nghe tiếng anh Hường đang quát tháo tù binh vì họ kêu đau chân đau vai. Hai tù binh đang khiêng tôi đi. Họ bị lột giày và chỉ mặc quần áo lót.

Tôi thiếp đi.

Trời xẩm tối. Tôi lại tỉnh. Thấy mình đang nằm trong một cái chợ. Xung quanh nhiều người dân.

Một người phụ nữ giọng hốt hoảng: Các chú bộ đội oi cho tôi tiếp máu người này nhé, người này thiếu máu trầm trọng, yếu quá rồi.

Người phụ nữ mang chai máu khô đến. Cột chai máu vào cái cột đình của chợ. Người dân tản ra để chị thao tác truyền máu cho tôi.

Một bác đánh xe lam đến: Bộ đội cho tôi giúp một tay với. Cần chở thương binh đến bệnh viện nào tôi chở đi.

Anh y tá nghe hợp lý. Bảo bác xe lam chở tôi tới phẫu quân y trung đoàn.

Họ đặt nguyên cả đòn cáng ngang xe lam và mang theo chai máu đang truyền.

Đến nơi họ cáng tôi xuống, đặt ngang trên miệng hố pháo 120 ly của đơn vị hỏa lực vừa rời khỏi.

Anh y tá đi cùng tôi đến đây nói với hai anh vận tải: Các anh khẩn trương đưa anh này lên tuyến sư đoàn.

Hai anh vận tải khiêng tôi chạy. Tôi nằm trên cáng lúc tỉnh lúc mơ. Một tiếng dằn mạnh đau nhói. Từ từ các anh ơi tôi không thở được nữa. Đau quá các anh ơi đau quá các anh ơi. Tôi rên ư ử không thành tiếng.

Một trong hai người nói to. Đừng rên nữa, bọn tao đang cố hết sức đây.

Bất ngờ tôi nằm xoài giữa đám ruộng. Trời mưa, đêm tối. Các anh chạy nhanh quá vấp ngã. Tôi đau điếng. Vừa đau vừa rét. Một trong hai người lại nói: Chú mày thông cảm, đường trơn quá không nhìn thấy gì. Chú mày sẽ được cứu sống, không chết đâu mà lo. Bọn tao đang đi tắt cho nhanh.

Rồi họ lại bước chậm. Họ đang dò đường. Chân người đi trước giẫm phải cái ba lô. Họ dừng lại, lục tìm được tấm ni lông trùm lên người tôi. Tấm ni lông trùm lên tôi ấm hẳn.

Người đi trước nói như reo: Dưa hấu mày ơi, ăn đã.

Đường tắt qua ruộng dưa hấu. Hai người lần nữa thả phạch cáng xuống giữa ruộng. Tôi nói hai anh đặt chiếc mũ lên đầu cho dễ thở hơn, nằm phẳng thế này tôi không thở được. Họ đặt mũ vào gáy tôi. Họ đi tìm dưa hấu. Họ đi tìm dưa hấu ăn trong bao lâu tôi không biết.

- Chết cha không biết thằng thương binh đâu rồi.

- Tao và mày đi tìm hai hướng. Nhớ xát chân vào mặt đất khỏi bước qua cáng mà không biết.

Tôi nghe hai anh nói với nhau mà không sao lên tiếng được. Tôi ở đây. Các anh không tìm được chắc tôi chết ở đây trong đêm nay.

- Ơi thằng thương binh. Mày đang chỗ nào rên thật to lên.

Bây giờ phải bảo nó rên thật to rồi ghé tai xuống đất nghe cho rõ.
Ơi thằng thương binh sao khi cần rên mày không rên. Mày rên thật to để tao ghé tai xuống đất xem mày nằm ở góc nào.

Tôi không rên được, không làm sao rên được.

Tôi còn sức đâu nữa mà rên hở các anh.

- Ơi thằng thương binh nếu mày chưa chết thì mày cố rên lên để bọn tao còn biết.

Tôi bắt đầu rên được. Tôi rên. Rên to. Bao nhiêu sức dồn hết vào mà rên.

Hướng này mày ơi.
Hướng nào?
Hướng này.
Hướng này là hướng nào.
Rên tiếp đi nữa thằng thương binh ơi.

Tôi lịm đi.

Tôi nghe hai cái tát bộp bên tai rồi mở mắt. Tôi đang nằm trên bàn mổ. Bàn mổ là tấm liếp tre trải ni lông dựng lên trên sáu cái cọc tre. Đây là bệnh viện dã chiến cơ động.

Quần áo đâu?
Không biết.
Lấy cho anh ta cái quần đùi.

Anh y sĩ mặc chiếc quần cho tôi. Tôi nhìn thấy đèn măng sông sáng. Hai anh vận tải khiêng tôi đến đây lúc mười giờ đêm.

Và giờ hai anh y tá khác khiêng tôi đến hầm phẫu. Hầm phẫu nửa chìm nửa nổi có treo một chiếc đèn bão.

Trên thảm rơm thương binh nằm san sát. Tất cả đều im lặng.

Tất cả đều im lặng. Tôi cũng im lặng. Nhìn ra ngoài trời đã hửng sáng.

Y tá đặt tôi ngồi giữa hai thương binh. Một người vừa tắt thở. Họ khiêng người đó ra và tôi thay vào chỗ trống.

Đầu óc tôi đã tỉnh táo. Tôi đau không nằm được. Nằm thì không thở được. Cứ ngồi hai tay ôm đầu gối. Buồn ngủ cứ thế mà ngủ.

Lúc này là tám giờ sáng ngày 30 tháng 4.

Trong người tôi lên từng cơn rét.

Tôi nhìn sang người anh đang nằm bên cạnh. Từ khi tôi vào đến giờ anh vẫn ngủ say.

Tôi rét run cầm cập. Nhìn thấy anh đang gối đầu lên cái bọc chiến đấu. Đó là cái bọc của người lính mỗi lần ra trận mang theo bên người. Cái bọc vẫn còn căng. Tôi đoán trong đó có quần áo dài hoặc cái gì đó để đắp. Trên người tôi lúc này vẫn chỉ một chiếc quần đùi.

Tôi lay anh dậy để xin mượn. Lay mãi. Tay tôi sờ vào vai anh. Sao lạnh thế này. Tôi mò xuống tay anh xuống chân anh. Lạnh ngắt. Anh đã chết từ khi nào. Cơ thể đã cứng đi rồi.

Tôi nhìn anh nói nhỏ: Anh ơi ta đều lính cả. Anh đi rồi thì anh có cái áo cái quần dài nào cho tôi. Tôi rét quá. Anh cho tôi xin anh nhé. Nói xong tôi đỡ đầu anh lấy cái bọc.

Trong bọc vẫn đầy đủ các loại đồ phục vụ chiến đấu. Tôi chỉ xin anh bộ quần áo dài. Buộc lại gọn gàng, kê lên đầu cho anh như khi nãy.

Y sĩ đi qua. Tôi báo ở đây có người chết rồi.

Nhân viên đưa cáng khiêng anh đi. Chỗ tôi ngồi rộng hơn một tý.

Mười phút sau y tá lại cáng một người khác nằm xuống chỗ anh. Khiêng một anh thương binh vào, khiêng hai cái xác ra. Chốc chốc lại như vậy. Đơn vị quân y của sư đoàn biết mấy chục cái lán như thế này.

Anh đi rồi. Hai hàng nước mắt tôi đầm đìa. Xót xa đồng đội. Chết cô đơn lạnh lẽo. Anh tên gì quê anh đâu người thân của anh là ai. Đêm qua nếu tôi không may thì cũng giống như anh vậy thôi.

*

Ba tháng sau bình phục trở về đơn vị tôi được anh y tá cho biết người phụ nữ truyền máu cho tôi là bác sĩ có phòng mạch riêng ở Tân Qui, huyện Hóc Môn. Chị cùng người dân tình nguyện đi cấp cứu thương binh.

Một chiều chủ nhật tôi nhờ anh y tá đưa đến nhà chị nói lời biết ơn người đã cứu mạng.

Chúng tôi đến vừa khi chị đang dắt xe ra khỏi cổng. Anh y tá giới thiệu tôi và nói qua lý do sao chúng tôi lại đến nhà.

Khác hẳn với vẻ hốt hoảng hôm cấp cứu tôi, khuôn mặt chị lúc này nhìn thật xa cách và thờ ơ. Hai anh em tự nhiên lúng túng. Chị nói: các chú bộ đội cứ chờ đây, hoặc đi đâu đó một lúc rồi quay lại, chị lên Sài Gòn có chút việc rồi về.

Ngồi chờ chị ở quán nước sát bên nhà một tiếng đồng hồ chị vẫn chưa về. Chúng tôi phải về đơn vị.

Chủ nhật tuần sau tôi lại đến. Cửa đóng. Tôi sang quán nước hôm trước ngồi. Trò chuyện một lúc người bán nước cho biết chị đã theo đường vượt biên cách đây hai hôm rồi. Chồng chị là đại úy Việt Nam Cộng hòa bị giết năm 1968. Bao nhiêu năm nay chị một mình nuôi con.

23.

Tôi được chuyển về điều trị tại khoa ngoại Viện quân y 175. Làm bệnh án và điều trị cho tôi là bác sĩ Lân.

Qua mười ngày tôi vẫn đang trong tình trạng khó thở. Sức khỏe suy kiệt.

Mỗi buổi sáng bệnh nhân tiêu chuẩn được một cái bánh mỳ và hộp sữa. Sáng nay tôi mệt lả không ăn nổi. Bác sĩ Lân đến tiêm. Mọi khi y tá tiêm nhưng không hiểu sao sáng nay lại là bác sĩ. Rút kim tiêm xong tôi lịm đi không biết gì nữa.

Tỉnh dậy tôi nghe anh bệnh nhân giường bên cạnh tường thuật lại chuyện đã xảy ra với mình. Sau khi tiêm xong tôi không kéo quần lên, không quay người lại, không bỏ chân xuống. Anh sang lắc người tôi nhắc nhở thì biết tôi đã mê man. Anh gọi bác sĩ đang thăm khám phòng bên kia. Các phòng ngăn cách bằng tấm kính nên từ phòng này nhìn rõ sang phòng kia. Các bác sĩ có mặt. Họ lật người tôi lại, đo huyết áp, kéo xem tròng mắt. Không rõ tôi bị sốc thuốc, thuốc quá liều hay vì lý do gì, chỉ biết sau đó bác sĩ Lân tiêm thuốc cho tôi rồi quan sát chờ tôi tỉnh dậy.

Từ hôm đó tôi trở thành bệnh nhân đặc biệt, được bác sĩ Lân quan tâm nhiều hơn những bệnh nhân khác. Mỗi ngày tôi phải tiêm ba lần. Tôi nằm sấp. Bác sĩ Lân chọc một phát kéo ra từ phổi một xi lanh đỏ ngầu máu mủ. Tôi bị tắc động mạch phổi. Đó chính là nguyên nhân khiến khó thở.

Số thuốc tôi phải tiêm và uống trong suốt gần ba tháng nằm viện nhiều không biết bao mà kể. Mỗi ngày ba phát tiêm. Sang tháng thứ ba giảm xuống còn hai phát mỗi ngày.

Bác sĩ Lân hàng ngày xuống thăm, động viên tinh thần tôi. Những hôm không phải phiên trực anh cũng ghé qua vài phút hỏi han dăm ba câu vui vẻ. Tôi cảm nhận được sự quan tâm chân thành anh dành cho mình.

Tôi bắt đầu ngồi dậy rồi đi lom khom. Một buổi chiều ăn cơm xong bác sĩ Lân qua rủ tôi sang nhà chơi cho thay đổi không khí. Ngôi nhà anh ở trong khuôn viên bệnh viện.

Tôi đồng ý đi. Anh dắt tôi từng bước chậm chạp. Một tay tôi cầm nạng một tay dựa vào anh như đứa trẻ lần đầu tập đi.

Ngôi nhà anh thật gọn gàng, ấm cúng. Vợ anh là chị Sâm giọng nhỏ nhẹ từ tốn. Chị pha trà. Đưa ra một đĩa bánh kẹo. Những đứa con đi lại quanh phòng quanh chỗ tôi ngồi nhìn tôi vẻ tò mò và quý mến. Chị giới thiệu mình là nhân viên điều dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy. Không khí thân mật buổi tối giúp tôi bớt ngại ngùng khi lần đầu tiên bước vào một ngôi nhà ở Sài Gòn.

Anh dắt vài lần, sau đó tôi tự sang một mình. Nằm viện mãi cũng buồn, tôi lại dậy chống nạng đến chơi với bọn trẻ. Chúng hỏi tôi những câu trẻ nhỏ vốn hay tò mò. Câu nào tôi không trả lời được thì cười trừ.

Một lần chị mang kem cốc ra mời tôi. Tôi xúc một thìa. Kem ngon quá. Tôi định xúc thêm thìa nữa bỗng giật mình cảnh giác. Lỡ người ta bỏ thuốc độc thì sao. Tôi nhớ lời thủ trưởng nhắc nhở hôm ở Tuy Hòa. Bây giờ tình hình đang hỗn loạn khó phân biệt địch ta. Trong lòng tôi xúc động. Trong lòng tôi muốn đón nhận muốn san sẻ tâm tư nhưng phút chốc ấy đột nhiên tôi thả chiếc thìa xuống bên cạnh cốc kem rồi từ tốn nói với chị em ăn thế đủ rồi. Vị kem lạnh lần đầu tiên nếm thử thấm lưỡi tôi tới ngày hôm nay.

Chị Hai - chị gái của anh chị lần đầu tiên gặp tôi đã trò chuyện như quen thân từ lâu rồi. Có lẽ anh chị đã nói sơ qua về tôi cho chị biết.

Chị Hai hỏi tôi ngoài Bắc cung cách làm ăn kinh tế ra sao. Họ cũng là dân Bắc nhưng di cư vào Nam năm 1954. Tôi trả lời rằng chúng tôi làm ruộng, thành lập tổ hợp tác xã. Chị chăm chú lắng nghe tôi nói. Tôi mặc cảm bệnh tật nhưng trong lòng kiêu hãnh là anh bộ đội giải phóng. Tôi trả lời rành rẽ những thắc mắc của chị về bà con ngoài Bắc.

Ngoài Bắc làm ăn theo kiểu gì là câu tôi được nghe những người Sài Gòn hỏi thêm nhiều lần sau đó nữa. Một người phụ nữ đã chê cười khi nghe tôi nói ngoài quê mình làm ăn theo cung cách hợp tác xã.

“Chú này, nếu làm như vậy thì đầu óc con người ta ngày càng ngu đi nhỉ”. Tôi nóng mặt vì tự ái. Tôi điềm đạm trả lời: “Cái đó là tùy suy nghĩ của chị thôi. Ngu hay không là tự cá nhân đó phát triển hay không”.

Chị tiếp tục: “Đó là chú bảo thủ. Riêng quan điểm tôi cách thức làm ăn như vậy là không tự do phát triển. Đợi đội trưởng đánh kẻng rồi dân mới cầm cuốc mang cày đi. Đội trưởng chưa đánh kẻng thì ngồi ở nhà chờ. Ngoài làm ruộng ra không biết mở rộng ra làm kinh tế thì làm sao phát triển”.

Tôi kiềm chế. Mình là bộ đội. Họ là dân. Bộ đội với dân như cá với nước, mình phải giữ lời ăn tiếng nói để đi dân nhớ ở dân thương, dù lý do gì thì gây hiềm khích là không nên.

Có chỉ thị các gia đình cán bộ không được ở trong khu vực bệnh viện nữa. Gia đình bác sĩ Lân đi tìm mua nhà ngoài phố. Anh bảo tôi cùng đi xem một ngôi nhà dự tính sẽ mua. Tôi nói, anh tin tưởng, tôn trọng thì nói thế chứ em ở quê vào rừng đánh trận rồi trên rừng về đây biết gì chuyện mua bán.

Chị thuyết phục tôi đi cùng anh. Chị nói có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm.

Thật sao, có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm? Tôi cảm thấy sự khách sáo trong câu chị nói. Tôi đang buồn, được đi ra ngoài thì vui. Đây cũng là dịp được thăm thú Sài Gòn.

Ngôi nhà hai tầng khang trang lộng lẫy. Vừa đặt chân vào tôi thấy choáng ngợp. Đây là phòng khách, đây phòng ngủ, đây phòng bếp, đây phòng vệ sinh. Tôi đi theo anh chỉ dẫn. Hôm ở Tây Nguyên học về chính trị chúng tôi đã được cho biết rằng trong Sài Gòn làm nhà cao tầng vì đất chật hẹp chứ không rộng rãi như ngoài ta. Trong kia hào nhoáng giàu có là vẻ bên ngoài. Vẻ hào nhoáng đó là do đế quốc Mỹ đầu tư. Tôi nghĩ tới lời cảnh tỉnh đó nên nhanh chóng lấy lại sự thăng bằng. Anh nói giá nhà là bao nhiêu cây vàng gì đó rồi hỏi ý kiến tôi ra sao. Tôi trả lời thật bình thản, ngôi nhà này cũng tuyệt vời đấy, có ưu điểm gần bệnh viện anh đi làm.

Mấy hôm nay bác sĩ Lân trầm ngâm, buồn bã. Anh đến giường bệnh tôi ngồi. Hai chúng tôi đi dạo quanh khuôn viên bệnh viện.

- Anh nghe đài thành phố nói liên tục không?

Tôi có nghe liên tục.
Anh sĩ quan quân hàm đại úy anh phải chấp hành. Anh nên ra đăng ký tại phường. Người ta yêu cầu anh làm đon gì anh làm nấy, yêu cầu anh đăng ký tên tuổi thế nào anh cứ làm như thế. Anh là bác sĩ quân y. Anh chữa bệnh cho quân nhân. Không việc gì phải sợ. Học tập cải tạo vài năm anh về.

Ngày tôi ra viện chị Sâm đưa một túi bánh kẹo, thuốc lá đến chia tay tôi.

Cảm on gia đình chị. Em chỉ xin một gói kẹo và một gói thuốc mang về làm quà anh em ở đon vị.

Còn lại em xin phép không nhận. Bọn em đời lính không được dùng những khoản này. Em mang về rồi đon vị họ cho rằng em lấy khi đang đánh nhau. Đó chính là chiến lợi phẩm. Mà là chiến lợi phẩm thì thuộc vào mồ hôi xưong máu của đồng đội đã ngã xuống. Quan điểm chúng em dùng những thứ này là có tội với đồng đội. Nếu chị có lòng thì đợi khi ra quân chị cho bao nhiêu em cũng lấy.

Tôi về Tây Nguyên nhận được thư chị. Chị hỏi thăm vết thưong tôi thế nào rồi, đã về Bắc chưa, bọn trẻ và chị Hai ở đây luôn nhắc tới tôi và mong sớm có ngày gặp lại. Cuối thư chị báo tin anh Lân nghe lời tôi đã ra phường đăng ký và hiện đang đi học tập cải tạo.

Tôi chưa kịp viết thư trả lời thì chục ngày sau nhận tiếp được lá thư nữa. Chị cho tôi địa chỉ nơi anh đang học tập cải tạo, mong tôi viết thư động viên anh.

Lá thư tiếp nữa. Tôi nghĩ ra từng lời thật mạnh mẽ động viên chị. Chị viết thư trả lời ngay khi nhận được thư tôi. Tôi cảm nhận được cái gì đó gấp gáp mà chị khó nói ra.

Tôi chỉ là một thằng lính. Tôi chỉ biết tới vậy thôi. Tôi không muốn chị buồn. Tôi không biết nói gì. Tôi ngại ngùng. Chị viết thư lên tôi im lặng.

Lá thư cuối cùng tôi nhận được viết ngày 8 tháng 12 năm 1975.

“Anh đã đi tập trung cải tạo từ ngày 23/6 đến nay gần sáu tháng chưa được về. Chị vừa làm việc vừa nuôi các cháu vừa lo không biết sức khỏe anh ra sao. Chị và chị Hai cứ gầy mòn đi. Tại tính đàn bà hay lo. Vả lại từ trước tới nay sum họp một nhà quen rồi, bây giờ xa cách không gặp được mặt nhau là chị lo nghĩ liên miên mất cả ăn ngủ nên gầy mòn chứ chị được biết chính quyền cách mạng khoan hồng, cho cơ hội cải tạo và lo cho áo cơm đầy đủ chị cũng vững tin.

Gia đình chị có ông chú ruột hiện là Đảng viên - cán bộ giáo dục, cơ sở hoạt động cho cách mạng tại Nam Việt Nam từ 1945 tới nay. Anh đã tận tình giúp đỡ cho gia đình chú trong hai lần bị bắt tù đày Côn Đảo. Chú chị có làm giấy bảo lãnh cho anh và kêu theo đơn xin của chị có thị thực chính quyền địa phương đầy đủ. Không biết đơn có được cứu xét hay không mà hai tháng nay chị chưa được thư anh. Em có thể viết thư thăm anh được không? Nếu được lá thư của em sẽ là nguồn an ủi lớn cho anh đó.

Các cháu đi học cả rồi và học giỏi nữa. Các cháu rất nhớ chú Ngọc và mến yêu chúc chú sớm được sum họp gia đình - cũng như các cháu hằng mong tin ba Lân vậy.

Chị cầu xin ơn trên cho anh, chị, chị Hai và các cháu sẽ được cùng em họp mặt trong một bữa cơm gia đình thân thiết.

Chị Sâm”.

24.

Những ngày nằm viện mệt mỏi, chán chường. Nhờ quen được gia đình bác sĩ Lân thỉnh thoảng có người trò chuyện cũng khuây khỏa chút nào. Nhưng đến nhiều tôi cũng ngại.

Phòng bệnh tôi ở tầng hai. Hàng ngày cứ chống nạng đi từ tầng hai xuống tầng một. Rồi từ tầng một leo lên tầng hai. Hôm nào khỏe hơn thì mon men ra ngoài cổng viện đứng nhìn đường phố.

Đường phố ồn ào nhộn nhịp đối lập với tâm trạng bơ vơ lạc lõng. Bao nhiêu năm xông pha trận mạc bị thương chân thấp chân cao vẫn lao vào trận địa mà giờ hom hem yếu ớt. Sức khỏe thế này rồi không biết còn làm được gì nữa.

Nằm viện một tháng rồi đơn vị không biết. Sau này tôi mới biết đơn vị đã ghi tôi vào danh sách liệt sĩ. May là họ chưa gửi giấy báo tử về quê. Cuối ngày 29 tháng 4 y tá đại đội và ban chỉ huy đại đội nhìn sắc mặt và thể trạng tôi khi đưa lên xe người dân đi cấp cứu họ nghĩ rằng tôi không thể qua khỏi. Khi tôi về đơn vị thì quân trang tôi người ta mang đi. Cuốn sổ giấu trong đáy ba lô mang theo bên mình hơn bốn năm qua cũng bị lấy mất.

Cùng phòng bệnh tôi có anh Lạc người Hà Bắc. Anh bị thương đã bình phục nhưng chưa ra viện. Ngày nào anh cũng đi chơi. Sáng đi tối về. Ra đi tay không nhưng lần nào về cũng mang theo một túi quà. Anh nói bà con ngoài Bắc của anh trong này nhiều. Quen người này họ lại giới thiệu anh cho người khác. Anh đến chơi từng nhà. Tôi chẳng ham quà cáp gì nhưng nhìn anh đi đi về về vui vẻ tôi thèm lắm.

- Anh cho em đi theo với.

Đi làm gì?
Ở nhà bồn chồn.

- Ờ, ngoài cổng viện tao có bà đồng hương.

Anh dẫn tôi sang bên kia đường. Hai anh em vào một hàng quán ngồi. Chủ quán là bà cụ nhìn hiền hậu, gần gũi. Anh giới thiệu tôi là bạn điều trị cùng phòng. Ngồi chơi độ chục phút thấy anh nói nhỏ câu gì đó với bà chủ quán và quay sang bảo tôi cứ ở đây chơi chờ anh trưa về.

Gọi là quán nhưng chỉ là bàn ghế đặt ở bên hiên ngôi nhà nhỏ. Trên bàn bày bán một ít kẹo bánh và trái cây xoài, cóc.

Bà cụ hỏi chuyện tôi vài ba câu lấy lệ.

Tôi ngồi lặng lẽ. Nhìn ra đường phố. Thằng Pháp rút về để lại nhiều lợi thế cho thằng Mỹ. Thằng Mỹ tiếp tục đầu tư tô thắm cho thành phố này ngày thêm hiện đại để mua chuộc người dân đi theo. Thành phố đẹp nhưng lòng người bị chia cắt. Thật là buồn và đáng tiếc biết bao. Tôi miên man nghĩ.

Anh Lạc vẫn chưa về. Tôi ngồi lâu sốt ruột lắm rồi. Nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng có gì mới mẻ hơn. Tôi muốn về nhưng một mình không dám sang đường. Bước chân tôi đang run, đường thì đông. Tôi không dám.

Anh ơi vào đây.

Một cô gái ngồi trong nhà, ghé mắt qua cửa sổ vẫy tay tôi. Tôi quay lại. Cô nhìn tôi cười làm quen.

Bà chủ quán giới thiệu đó là cháu ngoại bà.

Vào đây nói chuyện với em.

Cô gái bước ra kéo tay tôi đi vào không để cho tôi do dự.

Cô gái học sắp xong lớp 12.

Em sống với bà ngoại từ khi hai tuổi. Mẹ ở Đà Nằng với các em. Ba là sĩ quan Cộng hòa.

Giờ anh ở lại ăn trưa với em và bà. Em nấu cơm xong rồi.
Anh không ăn. Anh có tiêu chuẩn cơm trong bệnh viện. Giờ em sắp xếp làm sao đưa anh sang đường anh về.
Em không đưa được. Anh Lạc dặn anh chờ. Em mà tự ý đưa anh về là bị mắng.

Tôi đành phải nán lại chờ anh Lạc. Rời rạc trả lời từng câu hỏi của em. Cô gái ngay lần đầu gặp tôi đã cảm mến nhưng vì lúc này tôi mệt quá. Tôi đói hoa mắt.

Đến một giờ rưỡi chiều anh Lạc mới về. Em dọn cơm ra mâm. Anh Lạc bảo tôi ngồi xuống ăn nhanh còn về.

“Có thuốc độc không?”, tôi ghé tai anh Lạc hỏi thầm. “Tầm bậy. Bà già đồng hương. Bà nhận tao là con tinh thần. Tao ăn đây nhiều bữa rồi”.

Lần đầu tiên đi ra ngoài bệnh viện. Cô gái xa lạ mềm mỏng thế kia. Tôi dặn mình không được chủ quan. Nhưng đói quá rồi, tôi đưa bát cho anh Lạc xới cơm.

Hôm sau tôi lại theo anh Lạc ra quán bà cháu ngồi. Anh Lạc đi, mình tôi ở lại.

Anh quê ở đâu? Đi lính thế nào? Bao giờ anh về thăm mẹ?

Cô gái hỏi. Tôi trả lời. Trả lời kỹ càng, chân thật cho đến khi nào cô hết thắc mắc.

- Anh uống nước nhé?

- Em gọt xoài cho anh ăn nhé?

Tôi lắc đầu. Tôi bớt đề phòng rồi nhưng người vẫn đang mệt, không muốn ăn uống gì. Từ 53 kg tôi lúc này còn 36 kg. Chân tay nổi gân xanh. Đi chống nạng. Ngực quấn băng. Diễn đạt từng câu chậm chạp.

- Anh vào giường nằm nghỉ một chút đi.

Tôi vào giường nằm. Thấy mình yếu đuối như đứa trẻ.

- Em đọc sách cho anh nghe nhé.

Cô gái mang sách ra đọc. Một cuốn tiểu thuyết. Tôi nằm mơ màng. Em kéo ghế ngồi sát bên. Tôi nghe. Chẳng biết em đang đọc gì. Tiếng cô gái Sài Gòn nhỏ nhẹ êm ru.

- Em đọc thế này anh có hiểu không?

Có. Nhưng em đọc chậm hơn một chút được không.
Anh Lạc về rồi. Mai anh ra em đọc tiếp nhé.

Ngày hôm sau trời mưa tôi không ra. Buổi tối anh Lạc đi chơi về đưa cho tôi một mảnh giấy. Mày có thư này.

Mảnh giấy viết một mặt, mặt kia gấp lại thay phong bì thư.

“Anh thân! Mấy ngày tâm sự với anh cảm thấy rất vui. Hôm nay anh không ra cảm thấy nhớ. Em mong anh chóng lành bệnh và thường xuyên ra tâm sự để em hiểu được miền Bắc là thế nào và xã hội chủ nghĩa là thế nào ”.

Tôi đã đỡ mệt, có thể nói chuyện được nhiều hơn mấy hôm trước. Em ngồi bên tôi lắng nghe như cô học trò ngoan.

Thế nào là xã hội chủ nghĩa? Xã hội chủ nghĩa là một xã hội do một Đảng lãnh đạo. Xã hội chủ nghĩa miền Bắc giống như xã hội chủ nghĩa thế giới nói chung. Hiện nay trên thế giới có 100 nước xã hội chủ nghĩa. Đều là những nước lớn, ví dụ như Liên Xô, Trung Quốc.

Xã hội chủ nghĩa miền Bắc cung cách làm ăn như thế nào?

Xã hội chủ nghĩa có xã, phường, tổ... với những tên gọi khác nhau nhưng đều là những tổ chức giúp cho chính quyền đứng vững. Xã hội chủ nghĩa ngoài miền Bắc bắt đầu từ đội sản xuất, sau đó là hợp tác xã sản xuất. Những đội sản xuất tập hợp lại thành một hợp tác xã. Trong hợp tác xã có hợp tác xã chăn nuôi, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp.

- Hợp tác xã công nghiệp làm gì?

- Hợp tác xã công nghiệp ở địa phương anh chưa có. Địa phương anh chưa có nhưng nơi khác có rồi.

Lứa tuổi như bọn em rồi sẽ làm thế nào và được làm gì?
Lứa tuổi bọn em học hết cấp ba thì thi vào trung cấp, cao đẳng, đại học theo khả năng và lựa chọn. Thi đỗ trường nào thì học trường đó. Học xong đi phục vụ đúng theo nghề mình đã học.
Cụ thể giờ em nên làm gì?
Em phải phấn đấu vào đoàn thanh niên cộng sản.
Đoàn thanh niên cộng sản là thế nào?
Đoàn thanh niên cộng sản giống như trong này gọi là đoàn thanh niên cộng hòa. Là đầu tàu gương mẫu. Ví dụ trong phường ta có 100 hộ. Thành lập ra hai chi đoàn. Năm mươi người trong một chi đoàn thì chọn ra một người sáng suốt nhất, nhanh nhẹn nhất, tháo vát nhất làm phân đoàn trưởng. Đoàn viên có nhiệm vụ làm những việc khó. Xem tổ dân phố cần giúp gì thì giúp.
Riêng em cần phải làm gì và được làm gì?
Em phải là người tiên phong, gương mẫu. Tình nguyện làm việc khó. Tình nguyện gánh vác việc gì đó mà xã hội đang cần.

Em không hỏi nữa. Trầm ngâm một lúc rồi bảo: Em đọc sách cho anh nghe tiếp nhé.

Em đã nhận một lá thư tôi viết. Em nói chữ tôi viết hoi nhỏ, khó đọc. Nhìn nét chữ anh em thấy số vất vả. Thư anh viết cũng không được văn chưong cho lắm.

Hôm sau em rủ tôi đi dạo phố.

Đi với em đằng này một chút. Em chủ động khoác tay tôi.

Ở ngã ba Gò Vấp có một cửa hàng chụp ảnh. Em kéo tôi vào xem. Em chỉ từng bức ảnh chụp các đôi lứa treo trên tường.

Đẹp không anh?
Đẹp.

Chỉ vào bức ảnh khác.

Đẹp không anh?
Đẹp.
Đẹp không anh?
Đẹp.

Chúng tôi ra khỏi cửa hàng.

Đi cùng em lại nhà đứa bạn để mượn sách.

Em lại khoác tay tôi. Em nói mình giờ chỉ còn người bạn gái thân này.

Ngôi nhà hai tầng có giàn cây xanh um tùm.

- Anh ngồi đây chờ em xíu.

Em leo lên cầu thang ngoài rồi mất hút phía sau. Tôi không biết em đi đâu.

Tôi ngồi ở ghế chờ ngoài hành lang. Có lẽ đây là sảnh một phòng khách sang trọng. Phòng khách đóng cửa. Im vắng.

Trời đột ngột đổ mưa rào. Tiếp theo là những tiếng súng nổ rất gần. Tiếng súng như phát ra từ con ngõ bên ngoài. Quán tính người lính khiến tôi rùng mình. Tôi không có súng trong người, sức đang yếu, giờ ai nhảy ra bóp cổ mình cũng không chống cự được. Tôi bất cẩn quá, mất cảnh giác quá khi đi theo cô gái này tới đây. Kiểu này lại chết vô danh rồi. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn.

Em chạy vụt về giữa mưa. Tóc ướt đẫm.

Em kéo tôi lại cuối hiên nhà rồi ôm chặt tôi.

Anh có sợ không?
Anh có sợ.

Ngày mai tôi ra viện. Đon vị đã biết tôi còn sống.

T ôi trở về đơn vị tiếp tục nhận nhiệm vụ lên T ây Nguyên chiến đấu với Fulro.

Bà ngoại nói, cháu đi rồi cố quay trở lại chơi. Quen nhau rồi giờ xa cách buồn.

Em hỏi khi nào anh trở lại.

Anh không biết.

Tôi còn ở Sài Gòn một tháng nữa mới lên Tây Nguyên. Ở cách bệnh viện mười lăm cây số. Tôi muốn tới thăm em nhưng không đi được. Mỗi tuần chúng tôi chỉ được ra ngoài một tiếng đồng hồ vào chủ nhật. Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do là tôi không có xu nào trong người. Không có tiền làm sao dám đi thăm bạn gái.

Tôi lên Tây Nguyên. Muốn viết thư về cho em nhưng không biết viết thế nào. Chữ tôi xấu. Không biết cách diễn đạt. Tôi ngại.

Cuối tháng 12 năm 1975 tôi viết thư nhắn qua chị Sâm nhờ chị hỏi tin về em. Chị Sâm viết thư lên báo tin cô gái ấy đã đi dạy học tình nguyện ở Tây Ninh. Nơi cô dạy là một huyện giáp với Campuchia.

Nhận được tin tôi xót xa. Mỗi ngày tôi lại cầu mong em bình yên. Nhớ lại buổi trò chuyện hôm nào lòng tôi day dứt.

Cuối năm 1976 tôi được phép về quê.

Tôi rời nhà đi chiến trường đã năm năm.

Vườn hoang, ngôi nhà trống không ọp ẹp. Em gái đi ra Bắc học nghề. Chỉ còn mẹ già yếu ở một mình. Cảnh nhà thế này sao tôi bỏ mẹ mà đi được. Tôi vào đon vị làm thủ tục ra quân. Về nhà chặt tranh tre cuốc xới vườn dựng lại nhà cùng mẹ kiếm bữa ăn qua ngày.

Những lá thư của em giờ tôi mới đọc. Em gửi thư về cho tôi qua địa chỉ của mẹ ở quê.

Đêm khuya mẹ đã ngủ giấc bình yên khi con trai nguyên vẹn trở về. Tôi mở từng lá thư. Nước mắt tôi chảy tràn. Tuổi trẻ của tôi đâu ai đã cướp đi tuổi trẻ của tôi.

Sài Gòn ngày 29.7.1975

Anh đi ngót hai tuần rồi mà em không nhận được một lá thư.

Em thiệt là khổ tâm khi gửi thư cho anh mà phải nhờ qua địa chỉ của mẹ anh. Thiệt là khó khăn cho em quá. Ở hoàn cảnh của em thì anh nghĩ làm sao?

Anh đang buồn hay đang vui? Buồn hay vui thì cũng quay lại thăm em anh nhé.

Ở đây em buồn nhiều. Bạn bè chỉ có một đứa bạn gái thân. Gia đình thì bị xuyên tạc. Tiền bạc eo hẹp. Bà thì ngày càng già yếu.

Em chán đến độ muốn đi tu để dứt hết mọi khổ tâm. Em tin tưởng phật. Phật cứu rỗi ta lúc khổ đau.

Khi em nói chuyện muốn đi tu anh đã khuyên em nên vì gia đình, vì xã hội mà đừng bỏ hết. Gác hết sự đời mà đi tu thì không tốt. Em quý trọng lời anh vô cùng.

Sài Gòn ngày 20.8.1975

Tại sao ba mẹ bỏ rơi em? Vì nghèo quá không nuôi được em hay vì lý do gì khác? Em có ba mẹ mà không cảm nhận được tình thương yêu của ba mẹ dành cho mình.

Lá thư thứ hai em viết cho anh. Lá thư trước anh đã nhận được chưa mà sao không hồi âm cho em. Em lo lắng quá, không biết anh thế nào. Trả lời gấp cho em anh nhé.

Ở quê anh có mẹ già. Anh thật hạnh phúc khi có mẹ yêu thương. Mẹ đã khóc thương anh khi anh ở xa làm nhiệm vụ người lính. Giờ anh đã về với mẹ, với làng quê nghèo khổ nhưng nhiều tình yêu thương.

Em là con gái thị thành không biết làm ruộng. Gia đình anh có chấp nhận một người như em không?

Sài Gòn ngày 15.10.1975

Đây là lá thư thứ sáu em viết cho anh rồi.

Anh đã hiểu hoàn cảnh gia đình em. Những lời chê cười, đàm tiếu của thiên hạ không làm em sợ. Em có làm gì xấu đâu mà phải sợ.

Quen một người như em anh có sợ bị ảnh hưởng danh dự không? Bạn bè sẽ nghĩ gì và anh sẽ trả lời với họ ra sao?

Tại sao em và anh quen nhau? Có phải do chiến tranh mà quen nhau không? Chiến tranh đã gây tang tóc cho quê hương anh và quê hương em miền Nam. Giữa hai miền Nam Bắc sau này em mong đừng bao giờ còn cảnh máu thịt tuôn rơi.

Lòng em xót xa.

Em biết anh là người tốt. Con người đạo đức không lấy cảnh đau của người khác mà làm vui cho mình.

Quê hương thanh bình anh sẽ bớt cực khổ. Mẹ anh sẽ không phải sống cảnh xa con trai nữa. Những người làng quê anh không còn đau khổ.

Anh khuyên em tương lai là ở tuổi trẻ nhưng bây giờ em thấy cuộc đời mình vô vị. Em muốn dứt xã hội. Em muốn tránh xa loài người độc ác.

Sài Gòn ngày 20.10.1975

Em muốn báo cho anh một tin vui, là em vừa nhập đoàn thanh nữ sáng nay. Em muốn gánh vác một phần nào công việc xã hội.

Nhận được thư lần này anh hãy trả lời gấp cho em nhé.

*

Người đàn bà trườn bên bờ sông. Người đàn bà chửa với cái bụng kềnh càng. Chị kia sao vậy. Người đàn bà hành động nhanh horn. Chị muốn chết sao. Chị đã lăn từ trên bờ xuống bãi.

Anh chạy vào nhà mở ba lô lấy tăng võng. Chị đã sổ ra, trên tăng võng vừa trải.

Anh chặt cây tre làm đòn cáng. Tìm thêm người khiêng mẹ con về trạm xá. Anh mang tăng võng ướt đẫm màu máu và nước ối ra sông. Tại sao là chuyện như thế này xảy ra trong buổi sáng anh trở về?

Người đàn bà từ noi nào đến không ai hay. Hai ngày sau chị bỏ đi. Đứa con ở lại. Một người lính nhận làm cha. Bên sông Ngàn Sâu, con lớn lên cùng dân làng.

*

Năm 1982 chú vào Sài Gòn. Chú đến khóm 5 Gò Vấp tìm ngôi nhà cũ. Nhà cũ vẫn ở đó, chưa thay đổi gì. Bà ngoại đã mất. Cô ấy đi dạy ở Tây Ninh một năm phải về vì chiến tranh biên giới. Đến năm 1979 có người bảo lãnh cho sang Pháp.

Tiếp chuyện chú lúc này là người mẹ. Ba của cô vẫn đang ở trại cải tạo Tây Ninh. Chú xin hỏi có cách gì để liên lạc với cô ấy. Người mẹ nói, không quen nhau nữa thì thôi, phong tục tâp quán trong này là vậy. Chú ở lại Sài Gòn thêm thời gian nữa tính kế mưu sinh nhưng không dễ dàng, trở về yên phận làm người nông dân. Nhà bên sông Ngàn Sâu mỗi năm mấy đợt lũ tràn về.

Chú không còn nhớ gì nữa. Không còn nhớ được gì nữa. Những lá thư này. Khuôn mặt ánh mắt này. Chiến trường. Xác chết. Đường số 7.



選擇汪精衛中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體

選擇汪精衛 中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體 因為站錯了隊伍 北洋軍閥頭腦比汪精衛清楚 所以一戰才能拿回山東 孫文拿德國錢,他是反對參加一戰 選擇蔣介石, 中國將淪為共產主義國家 因為蔣介石鬥不過史達林 蔣介石即使打贏毛澤東 中國一樣會解體 中國是靠偽裝民族主義的...