**深溪河畔的人**
1
我正在十五號公路邊放牛,忽然看見一連串的飛機開始行動。
一顆炸彈落下,兩顆……三、四、五顆炸彈相繼落下。
我們這些孩子早已習慣每天炸彈轟鳴的畫面。我們玩著數飛機的遊戲:數飛機,也數炸彈。每個孩子都能分辨各種飛機、炸彈的型號,以及它們投彈前後的飛行方式。
那五架飛機的目標是石老橋。這座橋位於十五號公路上,炸斷它就能阻斷交通,讓人與車都無法南進。
第一架飛機投下炸彈。第二、第三架立刻遭到我方高射炮猛烈還擊。第四架向下游方向逃竄。
第五架轉了一圈,飛行員彈射跳傘。飛機自由墜落,墜入竹亞森林。伴隨著震耳巨響,一柱火焰直衝天際。降落傘在空中飄蕩。
縣武裝部動員一個排,聯合農場和各鄉的民兵,圍住森林搜捕飛行員。敵軍的防空力量趕來救援。他們投下集束炸彈、發射火箭,不讓我軍靠近。
這是一場地面與空中的拉鋸戰,持續了整整兩天兩夜。飛行員終被俘獲,民兵將其押往一戶村民家中。
鄉鄉村村的人潮湧動,蜂擁而至,只為一睹美國飛行員的樣貌。我也擠進人群,找到一個靠近的位子。
那飛行員比我想像中還要高大。皮膚白,藍眼睛,手腳滿是毛髮。他沒有穿軍裝,制服與軍靴早被剝掉。
他坐在一張木板床上,幾乎占滿了整個床面。
他比劃著說口渴了,民兵遞水給他喝。
他又比劃說要上廁所,民兵帶他到後院,指著前方那是茅坑。
那時我們村的廁所是較為先進的雙坑式,用黏土鋪底,上方蓋著幾塊輕質木板。
飛行員在廁所門口猶豫許久,頭伸進去了,但身體進不去。折騰了好一會兒,最後還是由一名女民兵協助,他才勉強擠了進去。
民兵們在遠處持槍戒備。村民們則在外頭圍了一圈又一圈地等候。怎麼這麼久?上廁所怎麼這麼久?
兩名女民兵靠近查看,發現飛行員卡在糞坑裡。那幾塊木板支撐不住他百公斤的體重,垮了。他整個人掉了下去,渾身都是糞便。兩位女民兵將他扶到井邊,叫他坐下。
我站在那裡,張大嘴巴,看著這名曾駕駛飛機轟炸我們村莊的美國侵略者,正被女民兵一勺勺地澆水清洗。原來那樣的「美國敵人」,竟然是這副模樣。
NGƯỜI BÊN SÔNG NGÀN SÂU
1.
Tôi đang cưỡi trâu bên đường 15 thì nhìn thấy một loạt máy bay ra hoạt động.
Một quả bom thả xuống, hai quả bom... ba... bốn... năm quả bom thả xuống.
Lũ trẻ chúng tôi đã quen với hình ảnh bom rơi mỗi ngày. Chúng tôi chơi trò đếm máy bay. Đếm máy bay và đếm bom. Đứa nào cũng phân biệt được loại máy bay, bom và cách bay lượn như thế nào trước và sau khi cắt bom.
Năm máy bay hướng tới mục tiêu là cầu Đá Lậu. Cầu Đá Lậu nằm trên đường 15. Phá được cầu sẽ gây tắc đường, xe và người bị kẹt lại không tiến được vào Nam.
Máy bay thứ nhất thả bom. Chiếc thứ hai và thứ ba bị pháo phòng không của ta bắn tới tấp. Chiếc thứ tư lao về phía miền xuôi.
Chiếc thứ năm quay một vòng. Phi công bung dù. Máy bay rơi tự do xuống rừng Chúc A. Cột lửa khổng lồ bốc lên cùng tiếng nổ rầm trời. Một cái dù lơ lửng.
Huyện đội điều động một trung đội phối hợp với dân quân nông trường và dân quân các xã vây quanh khu rừng bắt phi công. Lực lượng phòng không của địch đến ứng cứu. Chúng thả bom bi vướng và phóng rocket không cho quân ta tiếp cận được mục tiêu.
Hai ngày hai đêm là cuộc chiến giữa mặt đất và trên cao. Phi công* đã bị bắt. Dân quân áp giải phi công về nhà một người dân.
Người ở các xã nườm nượp kéo nhau đi xem phi công Mỹ. Tôi chen lấn tìm được chỗ đứng xem gần nhất.
Phi công cao lớn quá mức tôi tưởng tượng. Da trắng. Mắt xanh. Tay chân đầy lông. Phi công không mặc quân phục. Quân phục và giày đã bị lột ra.
Phi công ngồi trên phản gỗ. Một chỗ ngồi của hắn chiếm gần hết tấm phản.
Phi công ra hiệu muốn uống nước, dân quân đưa nước cho uống.
Phi công ra hiệu muốn đi vệ sinh. Dân quân dẫn ra vườn, chỉ cho biết trước mặt là hố xí.
Bấy giờ quê tôi có hố xí hai ngăn tân tiến. Hố xí dầm bằng đất sét, mặt trên là những thanh gỗ nhẹ xếp lại.
Phi công đứng trước cửa nhà vệ sinh hồi lâu do dự. Thò được đầu thì người không vào được. Loay hoay mãi, một nữ dân quân phải hỗ trợ thì phi công mới chui được vào trong.
Dân quân cách xa một đoạn bồng súng canh gác. Người dân vẫn vòng trong vòng ngoài đứng chờ. Sao lâu vậy. Đi vệ sinh gì mà lâu vậy.
Hai chị dân quân tiến lại gần. Phi công đang mắc kẹt trong hố phân. Những tấm ván không trụ được sức nặng trên một tạ đã bị đổ sụp. Phi công rơi xuống. Người nhoe nhoét phân. Các chị dẫn phi công lại bên giếng bảo ngồi xuống.
Tôi đứng đó, há hốc mồm nhìn tên giặc Mỹ được các chị dân quân đang chuyền tay múc nước dội lên cho tắm. Tên giặc Mỹ lái máy bay thả bom xuống làng quê tôi là như thế này sao.
以下是這段越南文回憶錄的中文翻譯:
---
2.
我和雄一起去放牛。他的左臂天生畸形,所有的力量都集中在右臂上,因此他的右臂比常人還要強壯。
夏日午後,我們兩人一起砍樹枝作偽裝材料,扛到部隊的炮陣地去。路上若遇到飛機俯衝投彈,就互相提醒趴下不動,等聽見飛機聲遠去才爬起來。到了陣地,看到叔叔們正在對空射擊,我們就躲進地洞等待。等的理由是每人可以分到一個空彈殼做為獎勵。
那些空彈殼是閃閃發亮的黃銅製成。我知道銅是很貴重的金屬,家裡的銅托盤只有貴客來訪時母親才會拿出來用。
每週,村裡都會舉行一次宣傳活動。那時我們就把空彈殼拿出來用。我們這群孩子一手高舉寫有口號的標語:「美帝滾出越南南方!」一手吹著空彈殼,氣氛熱鬧非凡。
我總共收集了三十五個空彈殼。雄跟我商量說等戰爭結束,我們要一起開一家鑄銅作坊。這些彈殼可以拿來賣錢。我們把所有收集到的銅都藏在地窖裡。我家有五個地窖,現在我已記不得把那些彈殼藏在哪一個了。
那天,我牽著牛去吃青草。沒想到對面田那頭,雄也正趕著牛下田。
田裡有幾個人帶著鋤頭在挖鋁和鐵。炸彈轟炸過後,人們去挖未爆彈、地雷和子彈,帶回家或請工匠敲打成家用品。
雄放好牛後,向附近一位挖鋁的人借了鋤頭。他一揮鋤頭,正好擊中了一枚尚未爆炸的凝固汽油彈。
一聲驚天巨響,黑煙四起。我望過去,只見雄像一根燃燒的火炬,在那邊熊熊燃燒。
我之所以認出他,是因為他那條熟悉的萎縮手臂。
「雄啊,快趴下!」我大喊。
但雄可能已經聽不見了。我立刻衝過去。
我把他拉進一個剛炸出的彈坑裡,壓他在地上,不停地用土覆蓋,撲滅火焰。
火熄了。我把他背到背上開始跑。
跑了十多公尺,他突然用手拉我的肩膀,像是要我停下來。他的臉皮和腹部皮膚已經黏在了我的衣服上,他痛得受不了這麼貼身的姿勢。
我把他放下,牽著他的手一起跑回村裡。男人們都上戰場、到鄉或縣的戰備崗哨去了,村子裡只剩下老弱婦孺。
人們叫我去砍香蕉葉鋪在地上讓雄躺下。我扶他躺好,又按照指示去找爛掉的香蕉根蓋在他身上,讓他涼快一點。
我母親和雄的母親當時正在田裡插秧,聽到消息後跑回來,剛好趕上。他們把雄送去醫院。
縣醫院原本就在附近,但已被炸毀,現在已撤離到七公里外的香龍鄉。我不能跟去。母親聽人說,火苗已深深地滲入了骨頭裡。
醫院沒有藥可以撲滅體內深處的火焰。一天一夜後,雄死了。
那時,我們還只是四年級的小學生。
2.
Tôi đi chăn trâu với Hùng. Cánh tay trái của hắn bị tật từ lúc sinh ra. Sức mạnh dồn vào cánh tay phải. Vì thế tay phải hắn khỏe hơn mức bình thường.
Những buổi chiều hè hai đứa chặt cành lá ngụy trang vác lên trận địa pháo cho bộ đội. Giữa đường đi gặp máy bay sà xuống cắt bom bảo nhau nằm im. Đợi tiếng máy bay nghe xa mới bò dậy. Đến nơi thấy các chú đang bận bắn máy bay thì xuống hầm chờ. Lý do chờ là để được nhận thưởng mỗi đứa một cái cát tút.
Những cái cát tút bằng đồng vàng óng. Tôi biết đồng là quý giá. Ở nhà có cái mâm đồng mẹ chỉ đem ra dùng khi có khách quý.
Mỗi tuần xã lại tổ chức một buổi cổ động. Cát tút được mang ra sử dụng. Lũ trẻ tay giơ cao khẩu hiệu “Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam” miệng thổi cát tút rộn ràng náo nhiệt.
Tôi đã góp được ba mươi lăm cái cát tút. Hùng bàn với tôi khi nào chiến tranh kết thúc hai đứa sẽ chung nhau mở xưởng đúc đồng. Những cái cát tút này hứa hẹn sẽ làm ra tiền. Chúng tôi cất giấu toàn bộ số đồng có được vào dưới hầm kín. Nhà tôi có năm cái hầm. Giờ tôi chẳng còn nhớ đã cất giấu số cát tút đó ở hầm nào.
Hôm đó tôi dắt trâu ăn kẹ. Không biết là khu ruộng bên kia Hùng cũng vừa đuổi trâu ra đồng.
Trên cánh đồng vài ba người mang cuốc đi đào nhôm, đào sắt. Sau những trận bom người ta đào bom, mìn, đạn đem về bán hoặc nhờ thợ gò thành đồ dùng gia đình.
Hùng thả trâu, đi mượn cuốc của người đào nhôm gần đấy. Cuốc vung lên trúng vào đầu bom napalm chưa nổ.
Một tiếng nổ inh trời. Khói tỏa ra đen kịt. Tôi nhìn sang, Hùng đang như ngọn đuốc vàng cháy rừng rực phía đằng kia.
Tôi nhận ra Hùng vì một cánh tay thông thượt quen thuộc.
- Hùng ơi nằm xuống. – Tôi hét lên.
Hùng có lẽ không còn nghe được gì nữa. Tôi đuổi theo.
Tôi kéo hắn tạt vào hố bom mới, ghì hắn xuống đất rồi tới tấp bốc đất bột phủ lên dập tắt lửa.
Lửa dập tắt. Tôi cõng hắn lên lưng và chạy.
Chạy được chừng mươi mét thì hắn giật vào vai tôi, ý như bảo dừng lại. Da mặt và da bụng Hùng dính vào áo tôi. Hắn đau quá không chịu được tư thế ghì sát này nữa.
Tôi thả hắn xuống. Dắt tay chạy về phía làng. Đàn ông khỏe mạnh đi ra chiến trường, đi lên xã lên huyện trực chiến, làng xóm chỉ có người già yếu và phụ nữ, trẻ con.
Người ta bảo tôi chặt lá chuối trải dưới đất cho Hùng nằm. Tôi đỡ Hùng nằm xuống, tiếp tục đi kiếm những gốc chuối thối theo lời chỉ bảo đắp lên người cho mát.
Mẹ tôi và mẹ Hùng đang cấy ngoài đồng nghe chuyện chạy theo sau vừa về tới nơi. Họ đưa Hùng đi bệnh viện.
Bệnh viện Huyện gần nhà bị đánh bom nay sơ tán về xã Hương Long cách bảy cây số. Tôi ở nhà không được đi. Mẹ tôi nghe người ta nói lại rằng nhìn thấy chấm lửa ngấm sâu vào xương.
Bệnh viện không có loại thuốc nào để dập tan lửa đang cháy sâu trong cơ thể. Một ngày một đêm sau Hùng chết.
Bấy giờ chúng tôi đang là những đứa học sinh lớp bốn.
以下是這段越南文的中文翻譯:
---
3.
挖防空洞。一年級就得挖防空洞。在家挖,在學校也挖。每年都在挖。舊的防空洞塌了,就再挖新的。一年級開始挖,到了七年級還在挖。
老師分配每個學生必須挖幾公尺的洞。體弱的妹妹要靠哥哥來幫忙完成挖洞的任務。
我父親在1964年去世。死於胃病。那幾年間,很多人都有這種病。因為飢餓,因為辛苦,因為沒藥醫。哥哥參軍去了廣平。姐姐唸七年級,妹妹唸四年級。我十歲,就成了家中最堅強的人。
防空洞還在繼續挖。但人還是一直在死。我累了。我真的厭煩透了。我不想再挖洞了。我心裡充滿鬱悶卻說不出口。
我坐在牛背上,看著從地利那邊起飛的飛機準備投彈,就知道炸彈會落在我們村裡。又會有人死了,不知道這次是誰家。
我把牛趕回家,然後跑去同班同學家。炸彈正好擊中了他們家。軍人正在翻土找人。一顆禿頭冒了出來,是他父親的頭。人們趕緊拿個竹籃蓋住頭部,避免鬆土再把他埋住。繼續翻、繼續扒,把他拖出來時,身體已經軟塌塌、整片瘀青,像一根熟透的香蕉。洞裡還有三具屍體——一個孫子,和兩位鄰居。
那位死者的兩個兒子正在前線打仗。他們不知道家裡發生了什麼事。
炸彈聲停了。大家回自己家去看看還剩下什麼。
一戶人家的屋子全倒了。好幾個小時後,母親和年幼的孩子才從瓦礫堆中爬出來。兩位姐姐中午出去玩,不在村裡,差點也被炸中。他們這一家算是幸運的。
大人們彼此說道,炸彈會躲人,人卻躲不了炸彈。只要太陽還升起,今天就算是活著。一頭牛被炸死了,大家把牠剖開來分肉。即使日子這麼艱難,也沒人真正想吃。吃來幹嘛,明天我們也會變成那樣。
**「明天我們也會變成那樣。」**
度過極度悲觀的時刻後,人們又彼此笑了起來。等夜幕降臨後,一起到田裡偷拔玉米。在黑暗中,留在地裡的玉米比帶回家的還多。
生活在夜裡反而熱鬧起來。但炸彈也不分晝夜了。人們照樣跑到田裡,管它炸不炸。
這樣的生活什麼時候才會結束?我越來越焦躁不安。什麼時候上課不用再躲在地洞裡?什麼時候天上不再有轟鳴盤旋的飛機?什麼時候不再有那聲「嗡嗡」的炸彈預告?
這一切真的能結束嗎?戰爭真的會結束嗎?
雄的事情發生後,我被選去參加香龍鄉的「雙優會議」。什麼是「雙優」我也不清楚。老師寫了一張稿子,讓我帶去在會議上念。到了那裡,我遇到隔壁鄉的一位女孩,叫阮氏卯。她是剛剛在香福中學五年A班那場轟炸中倖存的學生。
---
> **註解**:
> 1966年2月9日下午4點半,美國空軍F4戰機群對民區投下58顆炸彈。共有6顆炸在香福中學,其中2顆擊中五年A班,造成33人死亡。
3.
Đào hầm. Học lớp một đã phải đào hầm. Đào hầm ở nhà. Đào hầm ở lớp. Năm nào cũng đào hầm. Hầm cũ sập đào làm hầm mới. Lớp một đào hầm lớp bảy vẫn đào hầm.
Cô giáo phân công mỗi em phải đào bao nhiêu mét hầm. Em gái yếu sức, phần đào hầm phải nhờ anh trai.
Cha tôi mất năm 1964. Cha mất vì bệnh đau dạ dày. Căn bệnh quá nhiều người gặp những năm tháng đó. Vì đói, vì khổ, vì không có thuốc men. Anh trai đi bộ đội trong Quảng Bình. Chị gái học lớp bảy, em gái lớp bốn. Tôi mười tuổi thành người mạnh mẽ trong gia đình.
Hầm vẫn đào. Mà người vẫn chết. Tôi mệt mỏi. Tôi chán quá rồi. Tôi không muốn đào hầm nữa. Tôi ức chế mà không nói ra được.
Ngồi trên lưng trâu nhìn máy bay từ dưới Địa Lợi đang chuẩn bị cắt bom là tôi biết bom thả xuống làng mình. Lại có người chết rồi, không biết lần này nhà ai.
Tôi lùa trâu về. Chạy sang nhà đứa bạn cùng lớp. Bom đánh trúng nhà nó. Bộ đội đang bới đất tìm người. Một cái đầu hói nhô ra. Cái đầu của người cha. Người ta nhanh chóng lấy rổ úp trên đầu để đất bột không vùi. Tiếp tục bởi tiếp tục cào. Thân thể ông kéo lên mềm nhũn và bầm tím như quả chuối. Trong hầm còn ba xác chết nữa. Đứa cháu và hai người hàng xóm.
Hai người con trai của người vừa chết đang đi chiến trường. Các anh không biết chuyện ở nhà.
Tiếng bom tắt. Mọi người quay về nhà mình xem còn gì không.
Một ngôi nhà đổ sập. Hàng tiếng đồng hồ sau người mẹ và đứa con nhỏ chui ra từ đống đổ nát. Hai cô chị đi chơi buổi trưa ở ngoài làng suýt nữa trúng bom. Họ là một gia đình may mắn.
Người lớn nói với nhau, bom tránh người chứ người sao tránh được bom. Tắt mặt trời biết là hôm nay mình còn sống. Một con bò bị bom đánh chết. Xẻ thịt ra, đói khổ là thế mà không ai thiết tha nữa. Ăn làm gì, ngày mai rồi mình cũng thế.
Ngày mai rồi mình cũng thế. Qua phút bi quan quẫn cực lại nhìn nhau vui cười. Đợi đêm xuống cùng nhau ra ruộng bẻ ngô. Trong bóng đêm phần ngô sót lại nhiều hơn ngô mang về nhà.
Cuộc sống sôi động về đêm. Nhưng rồi bom rơi không kể ngày đêm nữa. Lao đầu ra đồng bom thì kệ bom.
Cảnh sống thế này bao giờ thì chấm dứt? Tôi lại sốt ruột tôi lại không yên ở trong lòng. Bao giờ lớp học không phải trong hầm hào? Bao giờ trên trời không thấy máy bay sà sả bao giờ không còn tiếng rì rì báo hiệu loạt bom mới.
Chuyện đó có thể kết thúc không? Chiến tranh có thể kết thúc không?
Sau chuyện của Hùng tôi được đi dự hội nghị hai giỏi ở Hương Long. “Hai giỏi” là hai giỏi gì tôi không biết. Thầy giáo viết một trang giấy cho tôi mang đi đọc tại hội nghị. Đến nơi tôi gặp con bé ở xã bên cạnh tên là Nguyễn Thị Mão. Là học sinh sống sót trong trận bom mới xảy ra ở lớp 5A trường cấp hai Hương Phúc. 1
1 Vào lúc bốn giờ rưỡi chiều ngày 9-2-1966, một tốp máy bay F4 của lực lượng Không quân Mỹ ném 58 quả bom xuống vùng dân cư. Có 6 quả rơi vào khu vực trường cấp hai Hương Phúc, trong đó 2 quả rơi vào lớp 5A, làm chết 33
以下是這段越南文的中文翻譯:
---
4.
我在各地的流動電影院看了《阮文追》這部電影十三次。
那時我還是個穿著短褲、打著赤膊的小男孩,哪裡有放映電影,我就跑到哪裡。每一次觀影我都非常感動。我清楚地記得每一個場景、每一句台詞。一直到現在,只要一提到電影,我腦中浮現的還是《阮文追》裡的那些畫面。
我把阮文追說的每一句話都背得滾瓜爛熟:「我反對美帝國主義入侵越南南方,給我的同胞帶來無盡的苦難與死亡。」
「真正的罪人是美國帝國主義。我遺憾自己太早落入敵人之手,無法繼續戰鬥,無法完成解放民族、解放階級的理想,那是我一生的信念。」
夜裡,我夢見阮文追站在槍口前,仍然挺直身軀,說出正義的話語。沒有什麼影像比這更美。沒有什麼場景比這更能撼動我心。他就是今天愛國越南人的化身。若能像阮文追那樣死去,我將何其幸福。我懷著這樣的夢想入眠,在十五號公路那頭的炸彈聲中酣睡。
每週,鄉幹部都會到各村的小學生隊伍中巡訪,與我們交談,並選出表現突出的學生。有位叔叔給我一個任務:擔任「少年合作社」的社長。
「少年合作社社長」的職責,就是領導所有15歲以下、佩戴紅領巾的少先隊員。
夏天,每週有兩晚我要去參加政治學習活動。漸漸地,我開始明白:為什麼我們家鄉遭到那麼多炸彈襲擊?為什麼美國犯下那麼多罪行?
因為美國佔領南方,並將進一步攻擊北方。越南即將被美國吞併,美國將統治我們的國家。整個越南人民將陷入黑暗長夜之中。
(\*補充段落末尾破碎句的內容:)
那次轟炸中,有24位學生和老師 Thái Văn Nhậm 當場受傷,學校建築被炸毀。
4.
Tôi xem bộ phim Nguyễn Văn Trỗi mười ba lần ở các rạp chiếu phim lưu động.
Thằng bé quần đùi áo trần lon ton phim chiếu ở đâu cũng có mặt. Lần xem nào tôi cũng xúc động mạnh. Tôi nhớ rõ từng cảnh phim, từng lời nói trong phim. Nhớ đến nỗi nhắc đến phim ảnh, cho đến tận bây giờ, vang lên trong đầu tôi là những hình ảnh trong phim Nguyễn Văn Trỗi.
Tôi thuộc lòng từng câu anh Trỗi nói. “Tôi chống đế quốc Mỹ đã xâm lược miền Nam Việt Nam gieo bao đau thương tang tóc cho đồng bào tôi”. “Kẻ có tội chính là đế quốc Mỹ. Tôi rất tiếc đã sớm sa vào tay giặc, không được tiếp tục chiến đấu để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, thực hiện lý tưởng của đời tôi”.
Đêm về tôi ngủ mơ thấy hình anh Trỗi trước họng súng mà vẫn hiên ngang nói lời chính trực. Không có hình ảnh nào đẹp hơn. Không có hình ảnh nào làm tôi rung động hơn thế. Anh là con người Việt Nam yêu nước hôm nay. Được chết như anh Trỗi tôi hạnh phúc biết bao. Tôi mơ tưởng và ngủ mê trong tiếng bom ngoài đường 15 vang rầm trời.
Hàng tuần cán bộ xã về từng đội măng non ở các xóm để gặp gỡ, trao đổi và tìm ra gương mặt tiêu biểu. Một chú giao cho tôi nhiệm vụ chủ nhiệm hợp tác xã măng non. Chủ nhiệm hợp tác xã măng non là chỉ huy các bạn quàng khăn đỏ tuổi dưới 15.
Mùa hè mỗi tuần hai đêm tôi đi sinh hoạt chính trị một lần. Tôi đã hiểu tại sao quê mình bom pháo nhiều đến thế, tại sao giặc Mỹ gây tội ác cho dân mình. Mỹ chiếm miền Nam và Mỹ sẽ tấn công ra miền Bắc. Việt Nam sẽ bị Mỹ nuốt chửng. Mỹ sẽ cai trị đất nước này. Người dân cả nước Việt Nam rồi sẽ chìm trong đêm trường tăm tối.
em tại chỗ, 24 em và thày giáo Thái Văn Nhậm bị thương. Ngôi trường bị phá hủy.
以下是這段越南文的中文翻譯:
---
5.
兩個碗倒扣在一起。放學回家看到兩個碗倒扣在一起,就知道今天每個人可以吃兩碗飯。所謂兩碗飯,其實是兩份地瓜、一份米飯。媽媽煮熟後把飯舀進碗裡,自己則用鍋邊剩下的飯湊合著吃完,就去田裡幹活了。
如果沒有看到兩個碗扣在一起,那就是和平常一樣的一頓飯。媽媽會叫我們進廚房,每人拿一個碗,到鍋邊舀一點地瓜葉湯。
飢餓並不是讓人痛苦的事。那時大家心裡都只想著和平。只要和平能快點到來,就算一輩子吃地瓜葉和馬齒莧也甘願。
我家有一間兩側的屋子是專門用來儲存給部隊的糧食的。米一袋又一袋堆成山。院子裡是武器庫。我們母子幾人只能擠在屋角。住得擠一點沒關係,要把床位讓給解放軍叔叔休息,讓他們有力氣打仗。
有位解放軍叔叔看到我們一家只喝地瓜葉湯,心裡覺得不忍心。他小聲對媽媽說,可以偷偷拿一點點米。媽媽堅決拒絕。她說就算餓死,也不能動軍隊的口糧。
這裡的百姓全都這樣。軍隊的糧食、用品堆滿每家每戶、每個院落,大家都自覺守護。就算是軍人主動給,也沒人敢收。
有一次,一位軍人看見媽媽廚房裡什麼都沒有,離開前故意「忘記」帶走一口鍋。媽媽還沒發現,鄰居已經通報了。媽媽因此被批評,那口鍋也被送到鄉公所,等下一個部隊來接收使用。
缺糧、飢餓,是每家每戶的日常,但共同的責任不能少。每個超過18歲的公民,每年都要為國防上繳10公斤活豬肉。在這種整天要躲炸彈的日子裡,哪裡還能養豬?養不出豬的,就得折算成60公斤稻穀。
百姓有義務支援軍隊,但不能染指軍隊一針一線。就連偷一粒鹽,也是「越奸」(越南的漢奸)。戰爭結束後,有十輛鳳凰牌腳踏車被遺忘在某戶人家的屋簷下。即使這家人一輛腳踏車都沒有,也不敢動。村裡召開會議,決定要儘快找到原來的部隊,請他們來領走。
5.
Hai cái bát úp vào nhau. Đi học về nhìn thấy hai cái bát úp vào nhau là biết bữa nay mỗi đứa được ăn hai bát cơm. Gọi là hai bát cơm nhưng thực ra là hai phần khoai một phần cơm. Mẹ nấu chín xới cơm vào bát, phần mẹ vét xung quanh nồi. Mẹ ăn xong rồi ra đồng.
Nếu không có hai cái bát úp vào nhau thì sẽ là bữa ăn như mọi bận. Mẹ gọi các con vào bếp. Mỗi đứa cầm một cái bát lại nồi chan canh rau khoai.
Đói ăn không phải là chuyện gây ra đau khổ. Bấy giờ ai cũng chỉ nghĩ đến hòa bình. Mong ngày hòa bình đến thật nhanh. Hòa bình rồi ăn rau khoai rau má suốt đời cũng được.
Nhà tôi một gian hai hồi dành để gạo cho bộ đội. Gạo chất chồng gạo. Ngoài vườn là kho vũ khí. Mấy mẹ con nép lại phía góc nhà. Mình ở chật chội một chút cũng không sao, nhường các chú giường nằm để các chú nghỉ còn có sức đánh giặc.
Chú bộ đội nhìn mẹ con ăn canh rau mãi thấy thương. Chú nói nhỏ với mẹ lấy bớt vài bò gạo. Mẹ dứt khoát không. Chết đói cũng không lấy bớt đồ ăn của bộ đội.
Người dân ở đây ai cũng vậy. Đồ ăn thức uống đồ dùng của bộ đội để la liệt khắp các ngôi nhà các khu vườn mọi người bảo vệ. Bộ đội cho cũng không được lấy.
Một chú bộ đội thấy trong bếp mẹ chẳng có gì. Trước khi đi chú cố tình để quên một cái nồi. Mẹ chưa kịp thấy thì người hàng xóm đã phát hiện ra. Mẹ bị phê bình. Chiếc nồi phải chuyển ra ngoài trụ sở xã chờ một một đơn vị khác tới dùng.
Thiếu ăn, đói ăn là chuyện của mỗi nhà. Trách nhiệm chung vẫn phải thực hiện. Mỗi người dân trên mười tám tuổi mỗi năm phải nộp mười cân thịt lợn hơi cho quốc phòng. Làm sao nuôi được mười cân thịt lợn hơi trong hoàn cảnh cảnh đêm ngày chạy bom thế này. Không có thịt lợn thì quy ra sáu mươi cân thóc.
Dân có nghĩa vụ nuôi bộ đội. Dân không được tơ hào gì đến đồ ăn đồ dùng của bộ đội. Lấy của bộ đội dù một hạt muối cũng là Việt gian. Sau chiến tranh chục chiếc xe đạp phượng hoàng bị bỏ quên trên chạn một ngôi nhà dân. Gia đình không có xe đạp đi vẫn không dám đụng tới. Làng xã họp bàn.Phải khẩn trương tìm đơn vị bộ đội nào đó đến mang đi.
以下是這段越南文的中文翻譯:
---
6.
我不知道自己出生哪一年。老師問媽媽,媽媽說不記得。老師就在文件上寫我出生於1957年。
「你生於五七的話才十三歲,誰准你去當兵?」
村裡的幾位叔叔對我大聲呵斥。
我重寫了志願入伍申請書,改成1951年出生,然後交給鄉武裝部隊長官。姐姐在鄉上看到我的申請書,回家問我:「你是弟弟,怎麼會比我還早出生?」
我被通知去體檢。我知道我的體檢結果是 B2-,也就是不合格。
我穿著輪胎拖鞋,對負責量測的衛生員說:「連鞋子一起算進去吧。」我在路上撿了兩塊石頭,塞進褲子口袋——這是那些渴望上戰場的孩子的小伎倆。
就這樣,我的體重差不多有44.5公斤,身高1.6公尺,勉強通過第一輪體檢。
等到入伍通知來的時候,媽媽才知道我偷偷寫了志願書。
「孩子啊,妳爸已經去世,你哥七年沒回家了,現在你也要走,那誰放牛、誰幫我耕田呢?你再留幾年,等讀完書再去,媽媽不反對。」
那時我還在讀七年級。我比同齡的孩子讀得晚。
整個初中部,只有我一個人申請入伍。
初中生還沒達到必須上戰場的年齡。
三位鄉幹部來到我家。他們說:「你不能去。你這樣做是錯誤的思想。鄉裡還有符合標準的成年人可以去當兵。你這樣會讓上級批評我們。」
我說:「各位叔叔你們誤會了。你們讀書多、懂得多,有很多資料和報紙,那請你們解釋一下『少年軍』是什麼意思?是不是指那些還沒到法定年齡的孩子也可以進軍隊,從事像是通信這類工作?我先去訓練適應一下,再過幾年長大了就能直接參戰了。」
其中一人說:「你都這麼說了,我們也沒辦法了。」
無法阻止我這個兒子的決心,媽媽最後只好答應。
班級為我舉辦了一場送別會。有的同學貢獻芝麻,有的帶來蜂蜜,大家合煮了一鍋芝麻糖。還有其他班級的同學也來參加。那個下午真的很快樂。我成了全班的焦點,甚至成了整個學校的焦點。我在心裡默默發誓,要像阮文楚那樣英勇戰鬥,不辜負大家今天對我的情誼。
同學們送我一本筆記本。45位同學寫下離別的話,有的寫了三頁,有的寫滿五頁。
媽媽到學校,請老師們到家裡吃一頓送別飯。
家裡還剩一擔「三葉稻」米。這種米是特別品種,留著萬一餓極了可以拿來搗碎做米粉。這些米是媽媽存了好幾年的。今天媽媽決定拿出來,讓兒子和老師們吃上一頓好飯。
老師們很早就來了,每個人都得偽裝起來。外頭是轟炸區,晚餐後天空總是被照明彈照得通明。
大家紛紛叮囑我:「你要堅強走下去」、「你要努力奮鬥」、「你要完成任務」、「你是全校的驕傲」。
化學老師河老師抱著我哭,她哭得哽咽說不出話來。她有兩位哥哥在1968年和1969年陣亡。她把一條繡著兩隻鴿子和「永遠不忘」字樣的手帕交給我。
其實,在此之前,老師們都單獨找過我,勸我不要去。河老師什麼也沒說,但她的眼神卻充滿話語。
媽媽端上了飯桌。桌上有兩大碗雞湯,是她宰了家裡的主公雞煮的。還有一鍋煮香蕉花的湯,一鍋三葉米飯。
媽媽一一為大家盛飯。她陪坐在一旁,卻沒有動筷子。我心中一陣激動。這本來是媽媽反對我參軍,但現在她卻為我做了這頓飯,讓我感到快樂。
我端起碗來吃。天啊,這是什麼味道?一股霉味,濃烈刺鼻。我勉強吃了一口飯,苦而焦,苦得根本吞不下去。三葉米怎麼會變成這樣?我忍不住要哭了。
後來我才知道,那天的飯為什麼會那麼苦焦。
第一個原因是稻穀還沒曬乾,媽媽就收起來了。第二是從日頭底下直接把熱稻穀倒入桶中,結果穀子悶熱出汗、發霉。第三,是這些穀子儲存太多年,已經變質了。
媽媽不是一個擅長家務的女人。一歲時外婆就把她賣給一家富有人家當童養媳。媽媽在那家人家長大當傭人,沒學過字,也沒人教導她。還沒成年就嫁了人,然後笨拙地撫養四個孩子。
我看著老師們。沒有人露出異樣。每個人的碗裡飯都還在。校長請媽媽盛一碗不配飯的香蕉湯,班主任也要了一碗。大家都改吃香蕉湯,不碰米飯。
媽媽沒注意。她也不知道。幸好當時她什麼都不知道。
6.
Tôi không biết mình sinh năm nào. Cô giáo hỏi mẹ, mẹ bảo không nhớ. Cô giáo viết trên giấy tờ tôi sinh năm 1957.
- Mày sinh năm bảy thì mới mười ba tuổi, ai cho đi bộ đội?
Những người bác trong xóm quát tôi.
Tôi viết lại lá đơn xin đi bộ đội, khai sinh năm 1951. Tôi nộp đơn cho xã đội trưởng. Chị gái đọc được lá đơn trên xã, về nhà hỏi, sao mày là em mà sinh trước cả tao.
Tôi được gọi đi khám sức khỏe. Tôi biết sức khỏe tôi xếp vào B2-. B2- là không đạt.
Tôi đi dép lốp, nói với anh y tá cân đo rằng cứ tính cho em cả dép. Trên đường đi nhặt hai cục đá cho vào hai túi quần. Mưu mẹo của những đứa trẻ mới lớn khao khát ra trận.
Vậy là tôi cân nặng gần được 44,5 kg, chiều cao 1.6m. Trúng tuyển vòng đầu.
Đến lúc có giấy gọi mẹ mới biết chuyện tôi đã làm đơn xin đi bộ đội. Con ơi, cha thì mất rồi, anh con đã bảy năm chưa về, giờ con mà đi thì ai chăn trâu ai đi cày cho mẹ. Con ở nhà thêm vài năm nữa, học xong rồi đi mẹ không cấm.
Bấy giờ tôi đang học lớp bảy. Tôi đi học muộn hơn các bạn cùng lứa tuổi.
Cả trường cấp hai chỉ mình tôi xin đi bộ đội.
Học sinh cấp hai chưa có nghĩa vụ phải vào chiến trường.
Ba cán bộ xã đến nhà tôi. Họ nói: Mày không được đi. Mày đi là sai quan điểm. Xã vẫn đang còn người đủ tiêu chuẩn đi bộ đội. Mày làm vậy trên họ kiểm điểm chúng tao.
Tôi nói: Các chú các bác hiểu lầm rồi. Các chú các bác được đọc nhiều nghe nhiều có nhiều tài liệu và báo chí vậy giải thích cho cháu “thiếu sinh quân” nghĩa là gì. Có phải là những em chưa đủ tuổi vẫn có thể đi vào quân đội làm những công việc như là liên lạc không? Cháu cứ đi tập luyện cho quen. Vài năm nữa cứng cáp chiến đấu trực tiếp là vừa.
Một người nói: Mày đã nói vậy thì bọn tao chịu rồi.
Không ngăn được quyết tâm con trai cuối cùng mẹ phải chấp nhận.
Lớp tổ chức buổi liên hoan. Đứa góp vừng đứa góp mật nấu một nồi kẹo vừng. Có các bạn lớp khác đến tham gia. Buổi chiều thật vui. Tôi thành nhân vật trung tâm của lớp. Tôi thành nhân vật trung tâm của cả trường. Tôi tự hứa với lòng mình sẽ chiến đấu kiên cường như anh Trỗi để xứng đáng với tình cảm các bạn hôm nay dành cho.
Các bạn tặng tôi cuốn sổ tay. Bốn lăm đứa viết lời chia tay. Có đứa viết ba trang, có đứa viết kín hết năm trang.
Mẹ đến trường mời các thầy cô giáo đến nhà ăn một bữa cơm chia tay học sinh.
Trong nhà có một yến thóc ba lá. Thóc này để phòng khi đói quá thì đem ra giã làm thính. Gạo ba lá là gạo đặc biệt. Mẹ cất dành đã nhiều năm. Hôm nay mẹ quyết định mang ra giã cho con trai và thầy cô ăn bát cơm ngon.
Thầy cô đến nhà từ rất sớm. Ai cũng phải ngụy trang. Ngoài kia bom ném tọa độ và ăn cơm tối xong là pháo sáng liên tục.
Những lời dặn dò. Em đi chân cứng đá mềm. Em cố gắng phấn đấu tốt. Em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Em là niềm tự hào của cả trường.
Cô Hà dạy môn Hóa ôm tôi khóc. Cô khóc nức nở không nói được câu gì. Cô có hai người anh đi bộ đội hy sinh vào năm 1968 và 1969. Cô trao cho tôi chiếc khăn mùi soa có thêu đôi chim bồ câu và dòng chữ “Nhớ mãi không quên".
Trước đó các thầy cô đều gặp riêng tôi khuyên đừng đi. Cô Hà không nói gì. Cô không nói nhưng ánh mắt cô có bao điều muốn nói.
Mẹ bê mâm cơm ra. Trên mâm là hai tô canh gà. Mẹ đã làm thịt con gà trống đầu đàn. Một nồi canh chuối. Nồi cơm ba lá đặt bên cạnh.
Mẹ xới cơm cho mọi người. Mẹ ngồi tiếp chuyện nhưng không ăn. Trong lòng tôi dâng lên nỗi xúc động. Mẹ cấm không cho con đi mà giờ mẹ lại làm được bữa cơm thế này cho con vui.
Tôi đưa bát cơm lên ăn. Trời ơi, mùi gì vậy? Mùi mốc. Nồng nặc mùi gạo mốc. Tôi cố và một miếng cơm. Vị đắng khét. Đắng tới mức không thể nào nuốt nổi. Cơm gạo ba lá mà sao ra thế này? Tôi chực khóc.
Sau này tôi mới biết sao nồi cơm hôm đó lại đắng khét như vậy.
Lý do thứ nhất là thóc chưa khô khén mẹ đã mang cất. Lý do thứ hai là đổ thóc vào thùng ngay khi vừa giữa nắng đưa vào. Thóc đang nóng bốc hơi đổ mồ hôi rồi mốc. Và một lý do nữa, thóc để lâu năm quá bị biến chất.
Mẹ không phải là người phụ nữ khéo léo việc nhà. Một tuổi bà ngoại bán mẹ cho nhà khá giả. Mẹ lớn lên thành con ở nhà người. Không được học chữ, không được ai bày vẽ. Chưa hết tuổi lớn thì lấy chồng. Rồi làm lụng nuôi bốn đứa con một cách vụng về.
Tôi nhìn sang các thầy các cô. Không ai tỏ ra có chuyện gì. Bát cơm nào cũng còn nguyên. Thầy hiệu trưởng xin mẹ cái bát không chan canh chuối. Cô giáo chủ nhiệm cũng xin một bát canh chuối. Mỗi người ăn một bát canh chuối thay cơm.
Mẹ không để ý. Mẹ không biết. Cũng may là khi đó mẹ không biết gì hết.
7.
生產隊的隊長敲鑼召集村民開會。會議內容是號召每戶人家捐出一至兩毫,作為鼓勵小玉(Ngọc)上前線服役的支援金。整個生產隊最後湊到九塊錢。
青年團支部也開了會,買了一條毛巾送我,並對即將參軍的我表示鼓勵。
那時我只是個隊員。入伍前幾天,鄉裡有幾個人提議讓我入團,但沒通過。理由是:之前參加過「團員培訓」的人,現在必須重新上課才能正式入團,因為新制度要求團員名義上都要掛名為「胡志明青年團團員」。而我已經來不及再去補課了。
第二天一早,母親送我到巷口,碰上了鄉隊長。母親把我交給他後便轉身離去。為什麼母親不再陪我一程?為什麼姐姐和妹妹不像其他家庭那樣來送我?到了接兵訓練部隊所在的富嘉社(Phú Gia),我看到每位徵召者身旁都有家人陪伴,他們低聲細語地聊著天,一直到中午。而我,只有一人。
但我雖然一個人,卻不覺得悲傷。心情反而是緊張的,因為我知道接兵單位還要再做一次體檢,我是否能夠順利入伍還未確定。
鄉隊長從附近一戶民宅走出來,臉色陰沉。他剛剛被縣隊長批評斥責了一頓。原因是:縣裡要求至少動員十二人,結果實到的只有七個。我又開始擔心了。人數不足會不會導致徵召計畫被延期?
中午我們到當地一戶人家歇腳煮飯。家裡什麼食材都沒有,每人湊點錢去買米,蔬菜則是四處去討來的。那是我離家後的第一頓飯,匆匆吃下,味同嚼蠟。
下午三點,接兵單位點名複檢。我順利通過,確定正式入伍了。心裡非常高興,只是身邊沒有人可以一起歡呼。
7.
Ông đội trưởng đội sản xuất đánh kẻng người làng tới họp. Nội dung cuộc họp kêu gọi đóng góp một hộ dân một đến hai hào động viên cháu Ngọc lên đường làm nhiệm vụ. Cả đội sản xuất góp lại được chín đồng.
Chi đoàn thanh niên cũng tổ chức họp. Chi đoàn mua tặng tôi chiếc khăn mặt và nói lời động viên người ra trận.
Bấy giờ tôi đang là đội viên. Trước ngày nhập ngũ một vài người bên xã đề nghị tôi được kết nạp đoàn nhưng không được. Lý do là những ai đã đi học đối tượng đoàn trước đó giờ phải học lại mới được kết nạp để đoàn viên mang tên Đoàn viên Thanh niên Hồ Chí Minh. Tôi làm gì còn đủ thời gian để đi học lại.
Buổi sáng mai mẹ tiễn tôi ra đầu ngõ thì gặp ông xã đội trưởng. Mẹ bàn giao tôi cho ông rồi về. Sao mẹ không đi cùng tôi thêm đoạn nữa? Sao chị và em gái không tiễn tôi đi như những gia đình khác? Đến xã Phú Gia, nơi đơn vị huấn luyện về nhận quân, thấy mỗi người đi đều có cả gia đình bên cạnh. Họ ngồi trò chuyện to nhỏ đến tận trưa. Tôi thì một mình.
Tôi một mình nhưng không buồn. Tâm trạng vẫn đang hồi hộp vì biết phía bên nhận quân còn kiểm tra sức khỏe một lần nữa. Tôi chưa chắc chắn mình được đi.
Xã đội trưởng bước ra từ nhà dân gần đó với khuôn mặt bực bội. Ông vừa bị huyện đội trưởng phê bình quát tháo. Lý do tại sao huyện yêu cầu phải vận động được mười hai người mà giờ chỉ có mặt được bảy. Tôi lại lo. Không đủ số quân họ hoãn lại thì sao.
Buổi trưa chúng tôi vào nhà dân nghỉ chân và nấu cơm. Trong nhà không có gì để nấu. Mỗi người góp ít tiền đi mua gạo còn rau thì đi xin. Bữa cơm đầu tiên xa nhà ăn qua quýt.
Ba giờ chiều đơn vị nhận quân gọi tên khám lại. Tôi được nhập ngũ chắc chắn rồi. Lòng tôi vui sướng mà không có ai bên cạnh để reo lên.
8.
行軍。每個人肩上都扛著五片棕櫚葉,要帶去訓練地搭建臨時營地。
香秋、香清——這是我第一次踏入的鄉村。這裡居民說話的腔調讓我聽得很吃力。他們的語調常常不對,發音又拉得很長。
我的腳因為長時間步行而腫了起來。夜裡,一位老婆婆燒了熱水,放了鹽,讓我泡腳止痛,好讓我隔天還能繼續走路。
我個子太小,有人拍拍我肩膀問:「你是送哪個哥哥去當兵?怎麼走這麼遠,還沒回去?」已經有三個人問過我一樣的話。我已經是士兵了。他們怎麼都不知道我是士兵?
這個「矮小又輕」的問題再次讓我焦慮,是在抵達錦川(Cẩm Xuyên)時。兩個人走到我面前,一人手裡拿著筆記本和筆。那人握住我的手,問我叫什麼名字;另一人則滿臉猶疑。他們低聲交談了幾句後離開。過了一會兒又回來,再次握住我的手說:你被選去當許先生(ông Thứ)的聯絡員。
第一次上政治課。沒有桌椅,我們脫下橡膠拖鞋就地而坐。有人靈機一動,跑去民宅借來一張小凳子。他剛離開,我伸手去拿椅子,結果另一隻手也同時伸過來。我們倆搶著那張椅子。我抬頭一看——是我小學五年級的班主任,潘老師(Thầy Phàn)。他兩年前調去另一所學校,現在從那個鄉村參軍。
我立刻放開手,對方也同時鬆開。師生兩人互相讓座。現在,我們是戰友了。
8.
Hành quân. Mỗi người vác trên vai năm ngọn lá cọ để đến nơi huấn luyện lợp lán trại.
Hương Thu, Hương Thanh. Những xã trong huyện lần đầu tiên tôi đặt chân tới. Giọng nói người dân ở vùng này sao khó nghe. Họ nói sai dấu và phát âm kéo dài.
Chân tôi đi bộ nhiều quá sưng phù. Đêm xuống một người bà đun nước ấm pha muối bảo tôi ngâm đỡ đau để mai còn đi tiếp.
Nhìn tôi nhỏ quá, một người đi cùng đoàn vỗ vai: “Mày tiễn anh nào mà đi xa thế, sao qua đêm vẫn chưa về?”. Ba người đã hỏi cùng câu đó. Tôi là bộ đội rồi. Họ không biết tôi là bộ đội sao.
Chuyện thấp bé nhẹ cân còn làm tôi lo âu thêm lần nữa khi đến Cẩm Xuyên. Hai người đi lại trước mặt tôi. Tay họ cầm cuốn sổ và cây bút. Một người cầm tay hỏi tôi tên gì. Người thứ hai khuôn mặt đầy vẻ băn khoăn. Họ trao đổi với nhau gì đó rồi bỏ đi. Một lúc sau quay lại nắm tay tôi lần nữa: cậu được cử làm liên lạc cho ông Thứ.
Buổi học chính trị đầu tiên. Không có bàn ghế, chúng tôi tháo dép lốp ra ngồi. Một ai đó nhanh ý đi mượn được cái ghế nhỏ trong nhà dân. Họ đứng dậy bỏ đi đâu đó. Tôi với tay lấy ghế thì một bàn tay khác cũng giành lấy. Hai tay giằng co. Tôi ngước mắt nhìn lên. Thầy chủ nhiệm lớp 5 của tôi. Thầy Phàn. Thầy chuyển về trường khác dạy cách đây hai năm và ra đi nghĩa vụ từ xã đó.
Tôi thả tay ngay và cùng lúc bàn tay kia cũng rời ra. Hai thầy trò nhường nhau chiếc ghế. Giờ chúng tôi là đồng đội.
9.
在錦川(Cẩm Xuyên)訓練六個月,在香山(Hương Sơn)訓練三個月。
練習射擊、挖壕溝、搭建臨時營房、快速煮食、夜間警報、部隊機動——訓練項目一項接一項。
在錦川訓練期間,我有一次獲准回家十天。
自從我當兵離家,每次附近有炸彈落下,母親就會驚恐萬分地癱倒在地,雙腳重重拍打著地面,邊哭邊喊:「天啊,它把我兒子給炸死了!」母親驚慌哭叫,有時甚至會跑去找鄉隊長,大聲嚷嚷,像是那一切都是他害的。
我回家前,有位哥哥低聲對我說:「你回去的時候,讓我爸也來這裡看看吧。」我說:「你不是也剛回去過十天嗎?」他回我:「我爸想知道我在哪個單位。」
我帶著他父親來到了部隊。兩人剛好在中午時分抵達。我用母親臨行前給的錢,請伯伯去小飯館吃飯。那頓飯有水牛肉、滷魚和一碗魚湯。我是想讓伯伯放心,讓他看到當兵的生活並不缺吃少穿。我們這些兵,如果高興,還會點酒來喝呢。
見到兒子後,伯伯對他說:「小玉在單位混得不錯啊,他請我吃了一頓像樣的飯呢!」那頓「像樣的飯」,後來每次伯伯見到我,都會提起來說一遍。
那位哥哥是想讓父親來請部隊長官准他回家。他希望年邁辛苦又體弱的父親形象能喚起長官的同情。他家裡還有妻子和幼兒需要照顧。
隔天,他搖頭說:「不行啊,沒成。」他接著說:「你做聯絡兵,認識的人多,幫我講句話吧。你就說我吃了這邊的飯,不習慣,鬧肚子了。」
我回他:「幫你說這句話本來不難,但這藉口太難聽了,哥。」
9.
Sáu tháng huấn luyện ở Cẩm Xuyên. Ba tháng huấn luyện ở Hương Sơn.
Tập bắn súng. Đào hầm. Làm lán trại. Nấu ăn nhanh. Báo động ban đêm. Cơ động đơn vị.
Trong thời gian huấn luyện ở Cẩm Xuyên tôi được về nhà mười ngày.
Từ ngày tôi đi ở nhà mỗi lần bom trút gần là mẹ lại nằm vật ra hai chân đập đét. Mẹ hốt hoảng mẹ khóc. Nó giết mất thằng con tôi trời ơi. Nóng ruột quá mẹ lại chạy đến nhà ông xã đội trưởng gào thét như thể ông là người gây ra nông nỗi này.
Trước hôm tôi về một người anh nói nhỏ: Mày về rồi cho cha tao xuống đây nhé. Tôi nói: Anh cũng vừa được về mười ngày mà. Anh bảo: Cha tao muốn biết đơn vị con.
Tôi đưa cha anh xuống đơn vị. Hai bác cháu đến nơi vừa bữa cơm trưa. Có tiền mẹ cho trước lúc đi, tôi mời bác vào quán cơm. Bữa cơm có thịt trâu, cá kho và một bát canh cá. Tôi muốn bác yên lòng. Muốn cho bác thấy đời lính không có thiếu thốn đói khổ gì đâu. Bọn con thích thì còn gọi cả rượu.
Gặp con trai, bác nói với anh, thằng Ngọc làm gì ở đơn vị mà khá lắm, nó mời tao một bữa ra trò. Bữa cơm ra trò ngày hôm đó sau này mỗi dịp gặp tôi bác lại nhắc.
Người anh nhờ cha nói với thủ trưởng cho về. Anh muốn hình ảnh cha già lam lũ ốm yếu sẽ lay động lòng thương. Ở nhà anh còn vợ và con nhỏ.
Hôm sau anh lắc đầu: Không được mày ạ. Mày làm liên lạc quen biết nhiều hơn mày nói với họ một tiếng giúp tao. Mày nói là tao xuống đây ăn cơm không quen bị đau bụng.
Tôi trả lời anh, nói giúp anh câu đó đơn giản thôi nhưng khó nghe quá anh ạ.
10.
1971年1月12日,營隊接到命令南下作戰。
全體人員集合在山光運動場,聽營長宣佈:「我們營隊對美作戰的長征正式開始!」
那天是農曆臘月二十九,除夕前一天。
正當我在集合場上,看到同村的南哥騎腳踏車經過。那一刻,我內心激動得像是見到了親人。我立刻衝上前去,緊緊抱住他,哽咽了好一會兒才說得出話:「以後我沒法請你幫忙帶信了。等你有假回家,麻煩你替我去看看我媽,告訴她我已經上戰場了。」
部隊有命令,禁止攜帶筆記本和日記本。誰有這些東西,要麼託人帶回家保存,要是不方便就得燒掉。原因是怕被敵人俘虜後筆記落入敵手,他們可能根據上面的地址回溯追查,甚至向當地發放傳單,散布虛假信息,製造恐慌。這會讓家長、親戚、鄉親害怕,不讓孩子從軍,也會讓年輕人產生畏懼,動搖決心。
我偷偷把留言冊藏在背包最底層,偶爾拿出來讀讀,也記下行軍中發生的事。
一聲高喊:「出發!」長長的隊伍開始沿著長山山脈東側行軍。
走過渡口時,有兩輛卡車等候我們。
卡車啟動的時候,山街村的燈也亮了起來。
車上大家都保持沉默,因為要保密。不久就有幾個人把頭伸出窗外開始嘔吐。三、四個小時後,暈車的人把胃裡的東西全吐在前排和旁邊戰友的背包裡。
「到廣澤—廣平了,各位!」司機喊道。我們在廣澤休息一天。到了博澤縣巨艶社時,看見村民們在煮粽子、準備年貨,這才想起,明天就是過年了。
夜裡在森林裡繼續行軍,第一場熱帶雨林的暴雨傾盆而下。B-52轟炸機投下炸彈,彈片嗖嗖地從頭上飛過,泥土與石塊四散飛濺。腳下全是泥濘,深及腳踝,背包又濕又重,天黑得伸手不見五指。三十晚上,大地有情,沒有人受傷中彈。
拂曉時,我們抵達559號補給線的第五站。路邊有一鍋白飯倒在樹根下。聽說前一天有幾個小隊沒派人壓飯糰,直接整鍋扛上車,結果今天早上只好倒掉飯來拿回鍋子。到了下午,我們小隊的那鍋飯也被倒掉,理由一樣。
穿越廣治地區後,我接到命令,被編入第320師,參加南寮(老撾南部)戰役。
10.
Ngày 12 tháng 1 năm 1971 tiểu đoàn được lệnh vào Nam.
Mọi người có mặt tại sân vận động Sơn Quang nghe tiểu đoàn trưởng tuyên bố: Cuộc hành quân trường kỳ đánh Mỹ của tiểu đoàn ta bắt đầu.
Âm lịch hôm nay là ngày 29 Tết.
Đang tập trung tôi nhìn thấy anh Nam người cùng làng đạp xe đi qua. Lúc này nhìn thấy anh trong lòng xúc động như thấy gia đình mình. Tôi chạy ù ra, ôm lấy anh nghẹn ngào mãi mới nói được. Lúc nào về phép nhờ anh đến thăm mẹ em, nói với mẹ là em đã đi chiến trường. Từ nay thư từ không nhờ anh gửi được nữa rồi.
Lệnh không được mang theo sổ tay, nhật ký. Ai có thì nhờ người gửi về nhà cất, nếu không gửi về được phải đốt. Lý do không được mang đi là đề phòng bị địch bắt cuốn sổ sẽ rơi vào tay địch. Địch sẽ lần theo địa chỉ về tận địa phương rải truyền đơn xuyên tạc sự thật gây hoang mang cho người ở nhà. Cha mẹ họ hàng dân làng sợ hãi không cho con đi lính. Thanh niên sợ hãi mà chùn chân.
Tôi bí mật cất cuốn lưu bút vào đáy ba lô. Thỉnh thoảng mang ra đọc và chép chuyện xảy ra trên đường chiến đấu.
Tiếng hô lớn hành quân. Đoàn người cất bước dọc bờ đông dãy Trường Sơn.
Qua đò, hai xe ô tô chờ sẵn.
Xe chuyển bánh cũng là lúc xóm Sơn Phố lên đèn.
Trên xe, phải giữ bí mật nên anh em không nói chuyện nhiều. Vài cái đầu thò ra ngoài xe nôn. Ba, bốn tiếng đồng hồ sau thì những ai bị say xe nôn hết ra ba lô của người ngồi trước và người ngồi bên cạnh.
Đến Quảng Trạch – Quảng Bình rồi các chú ạ. Lái xe thông báo. Chúng tôi được ở lại Quảng Trạch một ngày. Tới xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch thấy người dân nấu bánh chưng, chuẩn bị đồ tết nhớ ra ngày mai là tết.
Hành quân bộ đường rừng vào ban đêm. Cơn mưa rừng đầu tiên trút xuống. Máy bay B52 dội bom. Những mảnh bom lừ lừ bay sát qua đầu, đất đá văng ào ạt. Dưới chân bùn đến mắt cá chân. Ba lô trĩu nặng. Trời tối thui không nhìn thấy đường đi. Đêm ba mươi tết đất trời thương xót không ai bị trúng bom.
Mờ sáng đến trạm 5 của đường dây 559. Bên vệ đường thấy một nồi cơm trắng đổ xuống gốc cây. Nghe nói là chiều qua nhiều tiểu đội không cắt cửngười nắm cơm mà để nguyên cả nồi cơm gánh lên xe nên sáng ra phải đổ cơm đi để lấy nồi. Đến chiều nồi cơm của tiểu đội tôi cũng bị đổ đi vì lý do như vậy.
Hành quân hết đất Quảng Trị tôi được lệnh bổ sung cho sư đoàn 320 tham gia chiến dịch Nam Lào.

沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。