以下是您提供的越南語文本的中文翻譯:
16.
崑嵩戰役結束後,我被選派去B3軍政學校學習。整個營只有四個人被挑選去上學。這四個人都是「動作快、理解快、靈活能幹」。
我們從部隊出發,一路問路前往學校。雨季時,路兩旁有很多東西可以吃,新鮮的嫩竹筍特別多。走了三天,我們才找到學校的所在地。
軍政三校設在柬埔寨境內。很多人稱它為「泥沼軍官學校」,因為那裡的森林全是泥濘地。從學校要去其他部隊,就得走「猴子橋」(一種簡易吊橋)。那裡的水是紅褐色的酸性水,既不能洗,也不能直接涉水而過。
我們這一批學員來的那個月,天天只能靠木薯充飢。因此這裡還有個別名叫「木薯葉軍官」。
我被分到C3班,也就是培訓排長的班級。在班上,我是年紀最小、體格也最瘦小的一個。
來到這裡的七天裡,我每天都得背子彈、背木薯,還沒吃上一頓像樣的飯,住的地方也只是躲在地洞裡,穿的衣服又破又爛,艱苦程度與前線無異。
「我要回部隊了。」我對一位同鄉、在學校當教員的大哥說。
「為什麼?」
「我以為上學是件舒服的事,沒想到這麼苦,還不如回戰場打仗,至少還有點用處。」
他說晚上帶吊床來他那邊,聊聊心事。
晚上,我去了他那裡。
他說:「你別以為留在前線就進步快,而來這裡上學就是吃苦。」
我說:「我也不是為了升遷什麼的,我只希望這場戰役快點結束,好回家。出來太久了。」
他說:「我啊,從1962年就出來了,十多年沒回家了。進來打了幾年仗,後來學校成立了,我就成了第一批學員。畢業後就留下來當教員。」
「跟你說,這裡好就好在能避開炸彈和炮火。平時工作就是上山種田搞生產,隔幾天上一次軍事課、政治課,學些政策和歷史。」
「聽哥一句話,能留在學校一天就多一天。能躲一天戰火就多一天。多少人想往後方調都調不走。我們有機會來上學,卻還想回前線拿槍。」
「你啊,戰爭雖然殘酷,但只要方式對了,我們還是可以保住自己。」
聽了他的分析,我的頭腦清晰了一些。原本有幾句想反駁的話,但一想自己是晚輩,還是安靜聽著吧。比如我想問他:「那那些還在前線守哨的戰友怎麼辦?我們常說『守哨就是等死』,我自己也好多次以為死定了。」
他突然打斷我的思緒:「你現在缺什麼,我幫你?」
我說:「我什麼都缺。連紙筆都沒有,肚子總是餓。」
一個月後,他被調上去了,負責更高層的教學工作。我們就再沒見過。後來我回家鄉,才知道他已經退休,官階還不低。
如果您還有其他段落需要翻譯,或需要修改語氣風格(如文學性更強、或更正式),請隨時告訴我。
16.
Sau chiến dịch Kon Tum tôi được đi học trường Quân chính B3. Cả tiểu đoàn chỉ có bốn người được lựa chọn đi học. Bốn người “có tác phong nhanh, nhận thức nhanh và tháo vát”.
Từ đon vị chúng tôi hỏi thăm đường về trường. Mùa mưa hai bên đường có nhiều thứ để ăn. Măng tưoi non rất nhiều. Đi ba ngày thì chúng tôi tìm được đến trường.
Trường Quân chính 3 đóng trên đất Campuchia. Nhiều người gọi là trường sĩ quan cầu lầy vì ở noi này rừng toàn lầy lội. Từ trường đến các đon vị bạn phải đi cầu khỉ. Nước phèn đỏ quạch. Không rửa, không lội được.
Học viên đợt chúng tôi đến cả tháng phải ăn sắn trừ bữa. Thế nên còn có tên gọi là sĩ quan lá sắn.
Tôi vào lớp C3, tức là lớp đào tạo trung đội trưởng. Trong lớp tôi trẻ tuổi nhất, và cũng nhỏ bé nhất.
Bảy ngày đến đây cả bảy ngày tôi phải đi gùi đạn, gùi sắn, chưa được ăn bữa cơm nào, chỗ ở cũng là chui xuống hầm, quần áo vẫn rách nát. Thiếu thốn không khác gì ngoài tiền tuyến.
- Em về đơn vị đây. - Tôi nói với một người anh cùng quê là giáo viên của trường.
Anh hẹn tối mang võng sang chỗ anh rồi trò chuyện tâm sự.
Tối, tôi sang bên chỗ anh.
Vào đây đánh nhau vài năm, người ta tổ chức trường này thì anh là thế hệ học viên đầu tiên. Học xong anh ở lại làm cán bộ khung.
Nói cho em biết điều này, ở đây có cái hay là tránh được bom đạn.
Công việc là đi làm nương làm rẫy, tăng gia sản xuất, vài ngày lại đi học quân sự, học chính trị, tiếp thu thêm các đường lối chính trị, các vấn đề lịch sử.
Em nghe anh, cứ ở lại trường được ngày nào hay ngày đó. Tránh được bom đạn ngày nào hay ngày đó. Bao nhiêu người đang tìm cách để lùi dần ra tuyến sau mà không được. Mình được đi học lại muốn về cầm súng.
Em ạ, chiến tranh ác liệt nhưng ta có cách ta vẫn giữ được mình.
Nghe anh phân tích đầu óc tôi sáng tỏ ra đôi chút. Có đôi câu muốn nói lại nhưng nghĩ mình bậc em tốt nhất lẳng lặng mà nghe. Ví dụ như tôi muốn hỏi anh: Thế những người đang giữ chốt trong kia là sao anh? Bọn em nói với câu chốt là chét, lên chốt là lên chỗ chết. Em đã bao nhiêu phen tưởng chết ở trong chốt rồi.
Một tháng sau anh chuyển lên trên dạy. Chúng tôi không còn gặp nhau. Sau này về quê tôi biết anh đã nghỉ hưu, cấp bậc cao.
以下是您提供的越南語第17段的完整中文翻譯:
17.
這是第43場戰鬥。
清晨五點,營部已經開火,我們的排負責衝鋒破口。我大喊著讓所有人從戰壕裡衝出來,直奔敵軍據點。
從軍校畢業後,我被派任突擊排排長,要上前線據點去駐守。
戰鬥中我一邊打,一邊觀察弟兄們的情況。
Huỳnh和Quý兩人掌管著M79榴彈發射器,是我們排的主力火力。但這時他們兩人還在壕溝裡折騰。我跑進去看。
「報告,同志Quý受傷了。」
「哪裡受傷?」
「頭部。」
我掃了一眼,只見他額頭上有一塊乾血斑,看起來就像一隻蒼蠅停在額頭上。年輕人這點小傷算什麼?我一把抓住他衣領,把他從壕溝裡拖出來。
「想逃避是不是?你看前面弟兄死了一片了!」
Quý還是猶豫不前。
我甩了他一耳光,又踢了他一腳。
「快衝鋒,支援兄弟!」
Quý只好衝了出去。
我們奪下據點後回到壕溝休息。這才知道,Quý是真的受傷了——M79榴彈在壕溝口爆炸,彈片射進他額頭,卡在骨頭裡,因為血被堵住沒流出來,我才誤以為他沒事。
他被送往後方,先進了營部醫院,後來轉到師部醫院。聽說那塊彈片穿過了鬆質骨進入了硬骨層,醫生鑿了一公分深都還沒取出來。
我心中愧疚、自責。
部隊繼續往前推進,參加更大的戰役,我便再也沒有Quý的消息了。
後來我知道,Quý是1972年從河靜省奇英縣奇上社入伍的。
1976年戰後我回到家鄉,常常想去找這位老戰友,看看他的傷怎麼樣了、現在的生活如何,也想親口向他道歉。
兩百公里的距離,卻始終沒能成行。年復一年,一拖就是幾十年。這件往事成了我心中的重擔。
後來經人介紹,我聯絡上了兩位以前同連的弟兄,他們住在錦川縣,年紀與我相仿,但因我曾是連長,他們至今仍稱我為「大哥」。我託他們幫我到奇英打聽Quý的下落。
錦川離奇英看似不遠,可年年打聽,總是回覆:「還沒找到」。兩人都記得我交代的事,但說到底,也沒人真正花時間跑一趟田裡幫我找人。
後來有位在錦美的朋友在山裡放牛時丟了一頭牛,那頭牛跑到了奇英地界。他去找牛時,順便幫我完成了這個多年的心願。
原來Quý還活著,住在奇上社。
這下我可以放心去拜訪了。我急切地催促錦川那兩位老弟安排時間同行。但從我催他們到真的出發,又拖了快兩年。每次都因各種理由延遲。
我終於不再等待,決定自己動身。
一到村口,就遇見一個挑著擔子去割稻的年輕人,還有一個住在十公里外、正準備去魚塘工作的人。我下命令說必須走。割稻可以明天再割。他只好請人幫忙割,因為如果不快點收,怕被牛踐踏。
我們三人騎摩托車直奔奇英。
在12號公路三岔口停下詢問去奇上的路。一位女教師說:「跟我走吧。」她自稱是老師,我便問她認不認識一位叫Quý的傷殘軍人,她搖頭。到了奇上社,她便與我們分道揚鑣。
奇上一、奇上二,到處都有叫Quý的人。問路人也只是隨口一答就離開。
我們三人站在路邊等。一位青年騎車載著一位拄拐杖的老人,看起來像是退伍軍人。問一下果然就是。
老人告訴我們,在奇上一社有個叫Quý的二級傷殘軍人,腦部受過重創。他家在與廣平省交界的森林深處。
我們總算找到了。他兒子讓我們稍等,便騎車去接父親回來。
那是一棟簡陋的老屋。我們想看看牆上有沒有他年輕時的照片,但什麼都沒有。床上躺著的是他太太,據說長年患病。
Quý不認得我們三人是誰。
雖然不認得,但老戰友見面,還是得喝點酒再說。他兒子端出一籃鴨仔蛋和一箱啤酒。
鋪上草蓆,邊喝邊聊當年戰事。聊到第四或第五場戰鬥時,Quý才終於想起我是誰。原本還你你我我地稱呼著,
Quý突然改口叫我「首長」、「大哥」。
Quý說:「我也很內疚,當時兄弟們死傷一半了,我卻還抱著M79躲在壕溝裡支援。」
四十多年來,我們第一次能坐下來聊個痛快,話怎麼也說不完。直到凌晨三點,我們一起去溪邊洗澡。離他家半公里,有條從廣平流出的溪水。我們一個提手電,一個提煤油燈,來到溪邊脫光衣服,泡在水裡,彷彿又回到了當年還是士兵的日子,在崑嵩地區滿身紅泥、趁著取水順便洗衣服的時候。我們大喊、我們大笑,說自己是瘋子。溪邊的石頭,就像當年我幫戰死兄弟搓洗衣服的那塊。
我們笑著,卻止不住淚水。
如需整理成報導、小說體或文學體,我可以協助進一步潤飾。
17.
Trận đánh thứ bốn mưoi ba.
Tiểu đoàn đã nổ súng từ năm giờ sáng, mũi chúng tôi chịu trách nhiệm mở cửa. Tôi hô tất cả ra khỏi hầm, chạy thẳng vào đồn địch.
Ra trường tôi về làm trung đội trưởng trung đội mũi nhọn phải ra chốt tuyến đầu.
Tôi vừa đánh vừa quan sát anh em.
Anh Huỳnh và Quý đang giữ khẩu súng M79 là hỏa lực của trung đội. Sao giờ này hai người vẫn đang loay hoay trong hầm. Tôi chạy vào hầm.
- Báo cáo, đồng chí Quý bị thưong.
Nhìn lướt qua khuôn mặt Quý chỉ thấy có một vết máu khô giống như con ruồi đậu trên trán. Thanh niên khỏe mạnh bị thế nhằm nhò gì. Tôi cầm cổ áo Quý lôi ngay lên khỏi hầm.
Quý vẫn chần chừ.
Tôi táng một bạt tai. Đạp tiếp vào đít.
- Xung phong mau để yểm trợ anh em.
Quý buộc phải lao ra.
Chiếm được chốt chúng tôi về hầm nghỉ. Lúc này tôi mới biết đúng là Quý bị một mảnh đạn M79 nổ trước cửa hầm găm vào trán. Mảnh đạn găm lại máu không chảy ra được nên tôi đã phớt lờ.
Quý được cho ra tuyến sau. Lên viện tiểu đoàn rồi viện sư đoàn. Mảnh đạn xuyên qua xương xốp vào xương cứng. Nghe nói phải đục sâu một phân vẫn chưa lấy ra được.
Tôi day dứt, ân hận.
Đơn vị tiếp tục phát triển về phía trước, lao vào các chiến dịch lớn, tôi không còn biết tin gì về Quý.
Thông tin vê Quý tôi năm được khi đó là ở xã Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh, nhập ngũ năm 1972.
Sau năm 1976 trở về quê tôi luôn nghĩ đến việc đi tìm người đồng đội cũ xem vết thương sau đó thế nào, cuộc sống hiện tại ra sao. Và nói với người ta lời xin lỗi.
Khoảng cách chừng hai trăm cây số vậy mà cũng khó khăn. Cứ lần lữa năm này qua năm khác rồi hàng chục năm vẫn chưa làm được. Hàng chục năm trong lòng tôi nặng nề chuyện cũ.
Qua người nọ người kia tôi liên lạc được với hai cậu cùng đại đội ở Cẩm Xuyên. Bằng tuổi nhau nhưng vì tôi là đại đội trưởng nên tới giờ họ vẫn gọi tôi là anh. Tôi nhờ họ sang bên Kỳ Anh tìm thông tin về Quý.
Cẩm Xuyên sang Kỳ Anh tưởng gần vậy mà cũng hết năm này tới năm kia tôi gọi đến cả hai đều trả lời vẫn chưa tìm được. Chuyện tôi nhờ cả hai đều ghi nhớ. Ghi nhớ vậy thôi chứ chưa ai một lần bỏ buổi ra đồng để làm việc đó cho tôi.
Người bạn ở Cẩm Mỹ thả trâu ở ngoài rừng bị lạc mất trâu. Con trâu đi lạc sang bên đất Kỳ Anh. Bạn sang đất Kỳ Anh dắt trâu về tiện thể thực hiện trách nhiệm thủ trưởng cũ giao.
Ông Quý vẫn còn sống, ở trên Kỳ Thượng.
Vậy là yên tâm đi thăm rồi. Tôi sốt ruột gọi cho hai người ở Cẩm Xuyên sắp xếp thời gian rồi cùng đi. Từ khi tôi giục giã cho tới khi đi được thời gian cũng phải tới hai năm. Lần nào cũng có lý do để trì hoãn.
Không chần chừ được nữa tôi quyết định lên đường.
Tôi đến đầu ngõ gặp một đứa đang gồng gánh ra đồng gặt lúa, một đứa ở cách đó chục cây số đang đi làm cá. Lệnh phải đi. Lúa không gặt hôm nay thì để mai. Cậu ta phải nhờ người đi gặt giúp bởi nếu không làm kịp sợ trâu bò phá.
Ba thằng lên xe máy vào Kỳ Anh.
Đến ngã ba đường 12 dừng lại hỏi thăm đường về Kỳ Thượng. Cô gái đi đường bảo các bác cứ theo em. Cô giới thiệu mình là cô giáo nên tôi hỏi có biết ông Quý là thương binh không cô lắc đầu. Đến xã Kỳ Thượng cô chào chúng tôi đi về hướng khác.
Kỳ Thượng 1 hay Kỳ Thượng 2. Kỳ Thượng nào cũng có người tên Quý. Người ta trả lời rồi đi tiếp.
Ba anh em đứng bên đường chờ. Một thanh niên chở ông già ngồi sau cầm nạng đoán chắc là thương binh. Giờ hỏi thăm là trúng rồi.
Ông già chỉ cho chúng tôi đi về Kỳ Thượng 1 có ông Quý thương binh loại 2 bị chấn thương sọ não. Ngôi nhà họ ở tít trong khu rừng giáp với Quảng Bình.
Chúng tôi tìm được đến nơi. Người con trai bảo các bác chờ rồi đi chở cha về.
Ngôi nhà cũ tạm bợ. Chúng tôi tìm xem có bức ảnh của thằng Quý hồi trẻ treo trên tường không nhưng không có. Nằm trên giường là người vợ của Quý nghe nói bà bị bệnh đã nhiều năm.
Ông Quý không nhận ra ba chúng tôi là ai.
Không nhận ra là ai nhưng bạn chiến đấu gặp nhau thì cứ phải nhậu đã. Con trai ông mang về một rổ trứng vịt lộn và một thùng bia.
Trải chiếu ra ngồi uống bia ôn chuyện chiến trường. Kể đến trận đánh thứ tư thứ năm gì đó ông Quý mới nhớ ra được tôi là ai. Đang ông ông tôi tôi
Quý đột ngột đổi xưng hô em và anh, em và thủ trưởng.
Quý nói, em thì lại ân hận vì anh em chết bị thương gần nửa rồi mà mình vẫn ôm cây M79 yểm trợ ở trong hầm.
Lần đầu tiên sau hơn bốn mươi năm anh em mới được ngồi với nhau chuyện không sao dứt được. Tới ba giờ sáng rủ nhau ra khe tắm. Cách nhà Quý nửa cây số có một con suối chảy từ trong Quảng Bình ra. Thằng dọi đèn pin thằng cầm đèn hoa kỳ ra suối cởi hết áo quần đằm mình giữa khe tưởng mình vẫn là thằng lính năm nào được dịp ra suối lấy nước tranh thủ nhúng ướt áo quần rũ sạch bùn đỏ cả tháng lăn lê hầm hào ở Kon Tum. Chúng tôi hét, chúng tôi cười, chúng tôi bảo mình là những thằng điên. Hai bờ khe là bãi đá hệt như bãi đá ngày xưa tôi ngồi kỳ cọ bộ quần áo của đồng đội đã hy sinh. Cười cười mà vẫn không ngăn được hàng nước mắt.
以下是第18段的中文翻譯:
18.
雨季不能發動大規模作戰,部隊集中於穩固據點,配合進行小規模突擊。
1974年6月6日晚上七點,我被召到連部接受任務:明天一早,我們的中隊必須抵達5B路段,埋伏擊打敵軍增援部隊。
當時已是晚上九點,從連部返回我的中隊駐守地有一公里多,全是濃密的叢林,沒有燈、沒有火把,黑漆漆一片。回到據點時,有人正在站崗,有人還醒著。我立即召集所有人起床準備戰鬥,晚上十一點整隊出發。
除了我,沒人知道路線。我也只是看了地圖,快速記在腦中。這片區域我們從未踏足,天氣變化無常,敵情多變,我們的據點也經常變動。我走在前頭,後面跟著十八名戰士。翻過兩座山丘,涉過兩條溪谷,到達目標地點時是凌晨三點。弟兄們開始挖掘戰壕、架設迫擊炮底座。我和三位排長觀察地形,為各排、每個人分配任務。提醒大家不可入睡,要將耳朵和眼睛朝向各方偵聽。這時應該已是清晨五點多。我巡查完火力排,靠著一棵大樹抱著槍沉沉睡去。
士兵的直覺讓我迅速驚醒。天已大亮。一睜眼就覺得不對勁——陣地太空曠了。弟兄們躲在野草叢裡,只遮住頭部,腳全露在外頭。敵軍據點離我們不到半公里,只要敵人一蹲下就能發現我們,隊形立刻就會被殲滅。我心裡慌了,但面上不敢表現出來,怕弟兄們察覺。
中午九點,伙房兵終於將飯送到。我接過飯。身上背著一把AK槍、三個彈匣共120發子彈、四顆手榴彈、一把刺刀、一壺水,還有所有人的飯。我匍匐前進,把飯逐一送到每人手裡。就在此時,我聽到汽車聲。我連忙爬回去叫醒正在打鼾的排長阿祥。等得太久,他竟然睡著了,我搖了半天才叫醒他。
一輛CMC軍車停下,車上的士兵全跳下,直奔我們陣地方向而來,完全如計劃所料。我首先開火,並大喊「衝鋒!」同時喊話要求敵人投降。
戰鬥結束後,大家都有點恍惚。我們立刻將俘虜押走、撤離陣地。走入森林深處後才綁起俘虜,稍作休息。從前一晚接到任務開始,連中午飯都還沒吃。所幸沒人受傷,彈藥耗費不多,還俘虜了敵軍。我因此被稱為當年的「優秀中隊指揮官」。
三天後,我踩到敵人先前埋的地雷。野草和植物已覆蓋其上,完全沒被發現。這是我第三次重傷,進了醫院躺了三個月。出院時腳步還不穩,就接到命令重新上山駐守。拖著跛腳爬陡峭岩山,痛苦不堪。
高地白天日照炙熱,晚上寒風刺骨。每人只有一套破舊長袖衣服,沒有棉被也沒蚊帳。
守哨時緊張焦躁,吃不下也睡不好。神經緊繃如弦。伙房兵送上飯時,大家只能吃下一碗。山腳下是敵軍步兵,山頂上每隔十五分鐘就有炮彈飛來,炸彈無規律投放。
剩下的飯,我叫弟兄們拿去陰涼處晾乾,準備下次再吃。不敢曝曬在太陽下,怕被敵人發現。晚上,一群老鼠來偷吃這些飯。我做了陷阱,抓到十幾隻大老鼠。我問大家要不要吃。大家聽說老鼠肉能吃,都想試試。
老鼠被烤過後宰殺、剁塊用油煎。那油是我跟伙房兵討來的。弟兄們興奮地等著品嚐。
隔天一早我巡視哨所。風從第二哨口吹來,阿平和阿治站崗時說:「我們聞到像人肉腐臭味。」我停下腳步。的確是很熟悉的腐臭味。
我沿著倒伏的茅草走了十公尺,看到滿地老鼠糞,旁邊躺著五具腐爛的屍體,只剩頭骨與手腳的輪廓。老鼠咬過的痕跡還很新。
當初交接據點時,友軍就提過:兩週前他們曾殲滅一個敵軍巡邏小隊,屍體就曝屍於此。他們怕臭,只簡單掩埋。結果被老鼠翻出來。
新兵見到這一幕都感到反胃,有人當場嘔吐。但只要在叢林裡打過十場仗,就什麼都見怪不怪了。
18.
Mùa mưa không đánh lớn. Tập trung bám chốt cho vững và kết hợp đánh nhỏ lẻ.
Bảy giờ tối ngày 6 tháng 6 năm 1974 tôi được gọi lên ban chỉ huy đại đội nhận nhiệm vụ sáng ngày mai trung đội phải có mặt tại đoạn đường 5B phục kích đánh địch đi chi viện.
Lúc này là chín giờ đêm, từ ban chỉ huy về trung đội tôi chốt hơn một cây số. Đường rừng rậm, không đèn không đuốc, trời tối thui. Về đến nơi, anh em người đang gác người đang thức. Tôi gọi tất cả dậy chuẩn bị chiến đấu. Mười một giờ đêm xuất kích.
Ngoài tôi ra không ai biết hướng đi. Tôi cũng mới chỉ biết qua sơ đồ, ghi nhanh trong trí nhớ. Chưa ai đặt chân đến vùng đất này. Mưa nắng thất thường tình hình địch thay đổi nên địa điểm chúng tôi cũng di chuyển liên tục. Tôi đi trước, theo sau mười tám anh em. Vượt qua hai ngọn đồi, hai khe suối. Đến đúng địa điểm là ba giờ sáng. Anh em đào hầm, lắp đế cối. Tôi cùng ba tiểu đội trưởng quan sát địa hình, lên phương án đánh địch cho từng tiểu đội và từng người. Nhắc anh em không được ngủ. Phải đặt tai, mắt vào các hướng. Lúc này chắc đã hơn năm giờ sáng. Kiểm tra tiểu đội hỏa lực xong tôi ôm súng dựa vào gốc cây to ngủ thiếp đi.
Đôi tai lính nhắc tôi tỉnh dậy rất nhanh sau đó. Trời đã sáng. Vừa mở mắt đã thấy choáng. Trận địa quá trống. Anh em ẩn nấp sau lùm cây mua cây dại che được phần đầu thì nhoài ra ngoài phần chân. Đồn địch cách nơi chúng tôi chưa tới nửa cây số. Chỉ cần ngồi xổm là địch phát hiện ra và đội hình bị xơi gọn ngay tức thì. Tôi mất bình tĩnh nhưng không để lộ ra ngoài cho anh em biết.
Chín giờ trưa anh nuôi cũng đem cơm đến được tới nơi. Tôi nhận cơm từ anh nuôi. Trên người một khẩu AK, ba băng đạn 120 viên, bốn quả lựu đạn, dao găm, bình nước và toàn bộ số cơm của anh em. Tôi trườn đi mang cơm cho từng người. Phát hiện ra tiếng xe ô tô. Tôi trườn lại chỗ anh Hường tiểu đội trưởng đang ngáy ầm ĩ. Chờ địch lâu quá anh đã ngủ say, tôi phải lay mãi anh mới tỉnh.
Chiếc xe CMC dừng lại, toàn bộ lính trên xe nhảy xuống, đi thẳng tới trước mặt đội hình chúng tôi đã bố trí. Đúng như kế hoạch. Tiếng súng tôi phát hỏa. Tôi hô xung phong và kêu gọi địch đầu hàng.
Trận đánh xong rồi mà anh em ai cũng như mất thăng bằng. Giải tù binh và rời khỏi trận địa ngay. Đi khuất vào rừng một lúc mới trói tù binh và nghỉ. Nhận nhiệm vụ bất ngờ từ đêm qua, cơm trưa anh nuôi mang đến chưa kịp ăn. Anh em không ai bị thương, đạn tốn ít, bắt được địch làm tù binh. Tôi được ca ngợi là người chỉ huy trung đội giỏi của năm.
Ba ngày hôm sau tôi giẫm phải quả mìn địch cài sẵn lúc trước. Cỏ tranh cây cối đã mọc che nên không phát hiện ra. Đây là lần thứ ba bị thương nặng. Phải vào viện nằm ba tháng. Ra viện, bước đi chưa vững đã phải nhận nhiệm vụ lên chốt. Chân tập tễnh leo núi đá dốc khó chịu vô cùng.
Cao điểm ngày nắng ấm đêm thì rét buốt. Quần áo mỗi người được một bộ dài tay rách tả tơi. Không chăn không màn.
Ngồi trên chốt căng thẳng, bứt rứt. Ăn không được ngủ không yên. Thần kinh căng như dây đàn. Cơm anh nuôi đưa cơm lên mỗi người chỉ ăn được một bát. Dưới chân đồi địch bộ binh. Trên đầu pháo mười lăm phút lại nã. Bom bỏ không theo quy luật nào.
Cơm thừa, tôi bảo anh em mang đi phơi để dành ăn vào lần sau. Phơi trong bóng râm chứ không dám phơi lộ liễu ngoài trời nắng. Đêm đến một đàn chuột tới ăn phần cơm. Tôi làm bẫy bắt được chục con chuột to. Hỏi anh em có ăn thịt chuột không. Đã từng nghe thịt chuột ăn được nên ai cũng muốn thử.
Những con chuột được thui lên, làm thịt, chặt miếng rán mỡ. Mỡ tôi xin được từ anh nuôi đại đội. Anh em hào hứng ngồi chờ thưởng thức.
Sáng sớm mai tôi đi ra kiểm tra vọng gác. Gió thổi vào vọng gác thứ hai. Bình và Trị đang đứng chốt nói: Bọn em thấy thối mùi thịt người. Tôi dừng lại. Đúng là mùi thối rất quen.
Tôi lần theo lối cỏ tranh ngã rạp, cách hào mười mét nhìn thấy rất nhiều phân chuột. Và cạnh đấy là năm xác chết trơ ra đầu lâu và hình thù những ngón tay ngón chân. Dấu chuột moi còn rất mới.
Hôm bàn giao chốt đơn vị bạn có nói cách đây hai tuần họ nổ súng diệt một tiểu đội địch đi tuần tra. Xác địch phơi đấy, đơn vị sợ thối chỉ lấp sơ sài. Những con chuột đã sục tìm.
Lính mới gặp cảnh vậy thấy ghê. Vài người nôn ọe. Ở rừng, đánh chục trận trở lên thì quen hết.
以下是第19段的中文翻譯:
19.
部隊轉移到一個秘密地點,靠近14號公路。我們正在挖掘掩體時,聽到幹部說今天是除夕(三十日)。幹部會知道,是因為戰區補給給他們一本小日曆。士兵們則完全不知道日期。在這片地區,沒有平民、沒有交通聯絡,只有敵人和砲火。
掩體挖好後,大家又挖了一個半地穴半地上的坑道,用來作為春節臨時會場。
一張桌子是由幾根小木頭拼成的。一根多枝的大樹枝被用來插上“花”。胡志明主席的遺像是那本日曆的封面。點燃的乾柴枝充當香火。生水當作酒。一小盤鹽放在旁邊,象徵食物。
節目是「民主採花」(即抽籤式表演節目)。
我打開紙條:同志玉與同志典要笑出三十六種男人的笑聲。
兩人互相握手,開始笑。
哈哈、嘻嘻、呵呵、嘿嘿、呼呼……才演到第六種笑,大家已經笑到東倒西歪。情緒高漲,我們笑得停不下來。主持人已經數不清到底演到第幾種了。
突然,主持人的臉嚴肅起來:「不准笑了!」
「哈哈哈哈呵呵呵哈哈哈哈哈哈哈——」我完全止不住,繼續狂笑,「呼呼呼呼呼喔喔……」
有人衝過來摀住我的嘴。火把被吹滅。敵機空襲警報響起。
十分鐘過去。主持人說:「我們繼續吧,剛剛那位同志笑到第幾種了?」
一片寂靜。
接著,是哭聲。有人哭著回憶家中與母親一起倒數跨年的那一刻。有人哭,是想念已經死去的朋友。
「誰哭我就處分誰!」主持人大喊。
但已經沒人理會他的話了。
就這樣,我們在中部高原的山林中,度過了第四個戰地春節。
19.
Đơn vị chuyển đến một khu vực bí mật, gần đường 14. Đang đào hầm trú ẩn thì nghe cán bộ nói hôm nay là ngày ba mươi tết. Cán bộ biết vì họ được mặt trận bổ sung cho cuốn lịch tay. Lính thì không biết gì ngày tháng. Khu vực này không có dân, không giao liên, chỉ có địch và bom đạn.
Đào xong hầm trú ẩn anh em đào thêm hầm nửa chìm nửa nổi làm hội trường đón tết.
Chiếc bàn là những cây gỗ nhỏ ghép lại. Một cành cây to nhiều cành để gắn hoa. Ảnh thờ Bác Hồ là trang đầu cuốn lịch. Que củi khô đốt lên làm hương. Nước lã làm rượu. Một đĩa muối đặt bên cạnh là tượng trưng thức ăn.
Tiết mục hái hoa dân chủ.
Tôi mở mảnh giấy ra. Đồng chí Ngọc và đồng chí Điển phải cười đủ 36 điệu cười đàn ông.
Hai người bắt tay nhau và cười.
Ha ha hi hi hô hô hê hê hơ hơ... Mới được sáu điệu mà anh em đã cười nghiêng ngả. Phấn khích, chúng tôi cười không dừng được. Chủ tọa không đếm được bao nhiêu là điệu nữa.
Bỗng khuôn mặt chủ tọa nghiêm lại. Không được cười nữa. Ha ha ha hô hô hô hahahahahahahahhaha. Tôi không thể nào nào nín được nữa hôhôhôhôhooo.... Ai đó bịt mồm tôi lại. Đuốc tắt. Báo động máy bay địch.
Mười phút trôi qua. Tiếp tục anh em. Đồng chí nãy cười tới điệu thứ mấy rồi rồi nhỉ.
Lặng im.
Rồi tiếng khóc. Tiếng khóc nhớ phút giây đón giao thừa ở nhà với mẹ. Tiếng khóc vì nhớ những người bạn đã chết.
Đứa nào khóc tao kỷ luật. Chẳng ai để ý lời chủ tọa nữa.
Thế là xong cái tết thứ tư ở núi rừng Tây Nguyên.
以下是第20段的中文翻譯:
20.
第320師正追擊並阻擊敵軍,防止其經由7號公路從中部高原撤退至綏和(Tuy Hòa)。
地雷炸毀了橋樑,敵人無法通過,只能被迫後撤。逃難的民眾也因無路可走而被迫返回。但敵人沒有後退,民眾也沒有回頭。數以百計、數以千計的車輛擁擠在道路上,人群一片混亂。被擊中的卡車起火燃燒,屍體壓在車下。兒童哭喊著找不到家人,四處是絕望的尖叫。
群眾成群結隊逃入森林,試圖向平原方向逃命。他們逃離越共。因為留下來,就會被越共殘害,照樣會死。越共是惡獸,會剖腹挖肝。人民就是這樣被宣傳的。
他們逃離越共,逃向7號公路,逃向平原,逃向河口與大海。逃命,尋找生路。
死亡人數無法統計。有人餓死、渴死、被流彈擊中而死,被炸彈炸死。
屍體曝曬在陽光下。有的被坦克輾碎,散發惡臭。民眾因缺水而不敢下溪取水,怕迷路。埃地族人拿水出來換金子,一壺水換一錢黃金。
一個沾滿泥巴的小孩。我把我的水壺遞給他。可我得繼續趕路,跟上作戰進度。
我們在夜晚通過富本(Phú Bổn)和蓋橋(cầu Gãi)。那一週大家飢渴交加,看到水都很激動。俯身直接喝水,用鋼盔舀水大口吞下,趕快裝滿水壺。
隔天早上,我們看見昨晚喝水的地方,滿是浮起來的屍體,堆積在河岸上。繼續前進,到達靠近芒芒坡(dốc Mồng Mồng)的37號運河時,屍體也是一樣地漂浮滿水面。
昨天,我們決定釋放20名在前一天傍晚阻擊第45師戰鬥中生擒的俘虜。我們命令他們脫下軍服、扔掉武器,然後朝邦美蜀(Buôn Mê Thuột)方向走去。
「請救救我太太。」
一名男子懇求地看著我身邊的胡英(Huỳnh)同志,他是連隊的衛生兵。肩上背著一個有紅十字標誌的藥包。
那名男子正扶著一位婦女。他們已經沒有力氣再逃了。婦人癱軟地靠著丈夫,褲子已被浸濕。
他們一起把那名婦人帶進森林邊緣,離開了人群。她羊水破了,大出血。她一直努力追著丈夫逃命。
「她流產了。」胡英說。
他幫她打止血針,並一步步設法挽救她的性命。
那名男子脫下軍服,掏出身上藏的手槍,扔到遠處。
昨天還互相拿槍指著對方的人,如今卻在這種情況下一起坐著。婦人尚未恢復,胡英也無法離開。他已經與部隊脫隊很遠。
「那時你們說了些什麼?」
隔天晚上吃飯時,志進(Tiến)問我。當時我們部隊正在森林中紮營,等待命令。
胡英還來不及回答,空中的子彈灑落下來,正好打中我們的飯桌。志進握著筷子的手臂被炸斷了。
20.
Sư đoàn 320 truy kích và đánh chặn địch rút chạy khỏi Tây Nguyên về Tuy Hòa theo đường 7.
Mìn nổ sập cầu. Địch không qua được buộc phải lùi lại. Người dân di tản không còn đường đi buộc phải quay về. Nhưng địch không lùi lại và dân cũng không quay về. Đoàn xe hàng năm hàng bảy dồn ứ lại. Dòng người hỗn loạn. Những chiếc xe trúng bạn bốc cháy. Xác người nằm dưới xác xe. Tiếng trẻ thơ khóc lạc gia đình. Tiếng gào thét tuyệt vọng.
Dân kéo nhau từng toán chạy vào rừng tìm hướng về đồng bằng. Chạy thoát Việt cộng. Ở lại Việt cộng hãm hại rồi cũng chết. Việt cộng là con thú ác. Việt cộng sẽ mổ bụng moi gan. Người dân đã được tuyên truyền như vậy.
Chạy thoát Việt cộng. Chạy ra đường bảy chạy về đồng bằng, chạy về cửa sông chạy ra cửa biển. Chạy đi tìm cửa sống.
Số người chết không thể tính được. Chết đói chết khát chết vì đạn lạc vì chết trúng bom.
Xác người phơi nắng. Xác người bị xe tăng nghiền nát bốc mùi. Người dân khát nước không biết hoặc không dám đi xuống suối tìm nước vì sợ lạc. Người Ê đê đưa nước ra đổi vàng. Một bù nước đổi một chỉ vàng.
Một em bé lấm lem bùn đất. Còn bi đông nước tôi đưa cho em. Tôi phải chạy theo đà phát triển của chiến dịch.
Vượt qua Phú Bổn cầu Gãi vào ban đêm. Cả tuần đói khát mệt lử gặp nước ai cũng mừng. Gục mặt xuống mặt nước. Lấy mũ cối múc lên tu ừng ực. Nhanh tay đóng đầy những bi đông.
Buổi sáng mai ra nhìn chỗ mình đêm qua uống nước xác chết ngập tràn xác chết mắc lại bờ kè. Đi tiếp đến đến con kênh 37 gần dốc Mồng Mồng xác chết cũng nổi đầy như vậy.
Hôm qua chúng tôi quyết định thả 20 tù binh bắt sống từ trận đánh chặn binh đoàn 45 buổi chiều hôm trước. Bảo họ cởi bỏ quân phục, vứt súng rồi đi về hướng Buôn Mê Thuột.
- Xin cứu giúp vợ tôi.
Người đàn ông nhìn anh Huỳnh cầu khẩn. Anh Huỳnh y tá đại đội theo sát bên tôi. Vai anh đeo cái xắc có hình chữ thập.
Người đàn ông đang dìu người đàn bà. Họ không còn sức để chạy nữa. Người đàn bà đã lả đi bên người đàn ông, quần chị ướt sũng.
Họ cùng đưa người phụ nữ vào bìa rừng, tách khỏi đám đông. Chị bị vỡ ối, băng huyết. Chị đã cố chạy theo chồng.
Cô ấy bị sẩy rồi. Anh Huỳnh nói.
Anh tiêm thuốc cầm máu. Tiến hành từng bước giữ mạng sống cho người mẹ.
Người chồng trút bỏ bộ quần áo và rút khẩu súng đang trong người ném ra xa.
Hai người hôm qua còn chĩa súng vào mặt giờ ngồi với nhau trong tình cảnh này. Người vợ chưa hồi sức anh Huỳnh vẫn chưa thể bỏ đi. Anh đã bị lùi xa đơn vị một quãng dài.
Chúng mày đã nói với nhau chuyện gì khi đó?
Tối hôm sau đang ngồi ăn cơm anh Tiến hỏi. Đơn vị chúng tôi lúc này đang trú lại tại một cánh rừng chờ lệnh.
Anh Huỳnh chưa kịp trả lời. Đạn trên trời bắn tung tóe xuống trúng giữa mâm cơm. Anh Tiến bị đứt cánh tay đang cầm đũa.
以下是第21段的中文翻譯:
21.
我們第一晚抵達綏和(Tuy Hòa),住在當地一戶人家中。那是一個有女兒正在參加地方部隊的家庭。我們安心地說:「這是革命家庭。」
入夜後,我打開 National 收音機讓全家一起聽。老伯聽到河內廣播報導這次作戰行動時,興奮得站起來大聲說:「對,這麼說就對了!」
半夜我睡得正熟,忽然感到癢癢的,一睜開眼,發現那位母親正拿著煤油燈,一個一個地摸我們的手腳。我驚醒問:「阿姨,妳在做什麼?」她也嚇了一跳,說她聽人家宣傳說「七個共產黨解放軍爬上一根木瓜樹枝也不會折」,所以來看看我們的四肢,是不是真的那麼輕。
「七個共產黨軍人爬上木瓜樹枝也不會折」——這句話我們以前就聽過,只當作笑話,大家閒聊時說著玩。沒想到今晚在綏和真的從一位母親口中聽到,才知道這類謠言是真的被宣傳出去的。
第二天下午我們到出海口洗澡,有一群小孩和十歲出頭的少女跟著我們跑。我們不好意思,只好不洗。我拉著一個女孩的手問:「妳們跟過來做什麼?」小女孩說:「要看共產黨軍人的尾巴,因為你們像猴子一樣有毛、有尾巴。」
這時我們才知道,當地民眾被灌輸了很多對北方解放軍非常可怕的宣傳。很多人不敢正眼看我們,一旦我們問話,他們就低著頭小聲回答「是、是」。
營部交代我們包圍一座村莊。各個排隊分別駐守在三叉路與四叉路口。敵軍若混進村裡,若無法逃脫,就會脫掉軍服、穿上民眾的衣服混淆視聽。
村民煮飯,準備了很多好吃的給我們。路過田野時,看到有兩位大姊挑著沉重的擔子跟在後頭。原來她們挑著米粉卷(bánh cuốn),要拿來給我們當晚餐。
晚上吃的是白米飯與筍子燉鴨。各家出米、出食材,也有些人拿來酒與啤酒。部隊長官提醒我們:「在這種情況下,最好還是得保持警惕。」
啤酒和酒都擺出來了,但我們不敢喝,怕敵軍偽裝成平民在裡面下毒。
21.
Đêm đầu tiên đến Tuy Hòa. Chúng tôi ngủ ở nhà dân. Đó là gia đình có người con gái đang đi bộ đội ở địa phương. Yên tâm rồi, gia đình cách mạng. Chúng tôi nói với nhau.
Đêm xuống tôi mở đài National cho cả nhà nghe. Ông già nghe đài Hà Nội đang đưa tin chiến dịch. Phấn khích quá ông đứng dậy nói to. Đúng, nói thế là đúng.
Nửa đêm đang ngủ say tôi nghe nhột. Mở mắt ra thấy bà mẹ đang cầm cây đèn hoa kỳ. Bà nắn tay chân từng người. Tôi mở mắt ra, giật mình. Má, má làm gì thế. Bà cũng giật mình. Má nghe họ tuyên truyền rằng bảy thằng bộ đội cộng sản leo lên một cành đu đủ không gãy nên má đi xem chân cẳng bộ đội thế nào, có đúng như thế không.
“Bảy thằng bộ đội cộng sản trèo lên cành đu đủ không gãy” - câu đó chúng tôi từng nghe nhưng cứ nghĩ là chuyện tếu anh em lượm đâu về kể cho vui. Đêm nay nghe bà mẹ Tuy Hòa nói tôi mới biết là có thật.
Đến chiều hôm sau chúng tôi ra cửa biển tắm thì có một đàn con nít và các bé gái tầm cỡ mười mười ba mười bốn tuổi chạy theo. Chúng tôi ngượng không tắm được. Tôi nắm tay một cô bé, hỏi chạy đi theo làm gì. Cô bé nói rằng, đi xem đuôi bộ đội cộng sản, bộ đội cộng sản có lông và đuôi giống khỉ.
Bấy giờ chúng tôi mới biết người dân ở trong này được tuyên truyền những thông tin rất đáng sợ về bộ đội ngoài Bắc vào. Nhiều người không dám nhìn thẳng mặt bộ đội. Họ cúi đầu và dạ thưa mỗi khi bộ đội hỏi câu gì.
Tiểu đoàn giao nhiệm vụ chúng tôi vây một ngôi làng. Các trung đội chốt chặt tại các ngã ba, ngã tư. Địch vào làng nếu không lẩn trốn được đều cất súng và lấy đồ của dân mặc.
Người dân nấu cơm và chuẩn bị nhiều đồ ăn ngon cho bộ đội. Đi qua cánh đồng thấy hai chị gánh nặng đi theo. Các chị gánh bánh cuốn mang cho bộ đội ăn bữa chiều.
Buổi tối có cơm gạo trắng, vịt nấu măng. Nhà góp gạo nhà góp thức ăn. Có nhà mang rượu bia đến. Thủ trưởng nhắc nhở anh em, trong hoàn cảnh như thế này, tốt nhất chúng ta cứ phải đề phòng.
Bia, rượu dọn ra chúng tôi không dám uống vì sợ địch cải trang thành người dân bỏ thuốc độc.
22
部隊上車前往西寧,再徒步行軍下到古芝。當地百姓秘密地引導整個師部隊進入村莊。身處敵陣心臟地帶,當地民眾卻依然如常生活。夜裡,機動電影隊在樹蔭下唱歌表演。中午,戰士們在芒果樹間掛起吊床搖曳而眠。
上級命令第320師攻打同維基地,那是通往西貢首都的門戶。
戰役前夜,女房東小聲對我說:這是共產黨第九次攻打同維了。前幾年每次開打幾小時就被奪回,最久也不過撐過一天一夜。共產黨在那兒犧牲太多了。這一帶的百姓早已麻木,每次一打起仗就跑去撿屍體財物。
4月28日早上7點。排級以上幹部到營部集合,在沙盤上接收任務。沙盤以泥土製成,設於田野中央的空地。整個同維基地被縮小至約30公尺,包括:外圈120個碉堡,17道鐵絲網,兩個主要出入口,四條交通壕圍繞,中間鋪有柏油道路供敵人通行倉庫,還有四個居民區彼此相距900公尺,敵軍師部就駐守在正中央。
第二連為主攻部隊,負責打開突破口。
我們排為主攻排,任務是將旗幟插上敵軍師部的地堡頂端。
今天我決定穿上新衣服。我有預感,這可能是最後一場戰鬥。
最後一場戰鬥?我會死?還是這戰役結束就能回家?誰知道呢。我只覺得前方將是一場慘烈激戰。
詩人蘇友曾到西原見戰士們衣衫襤褸、污穢不堪,回北方後建議後勤部給每位戰士配一套軍服。這事我們是從報紙上知道的。說是一套,但實際上每人只分到一件。
有人有上衣,沒褲子。我拿到的是一件上衣。我稱它為「詩人之衣」。
今天我穿著「詩人之衣」,踏上這場決戰。
4月28日下午三點,出擊命令下達。
天空仿佛即將降下暴雨,黑壓壓的全是炮火煙霧。三小時後,我軍火箭彷彿火炬般直衝敵營。敵機投下照明彈與炸彈,攻擊我軍開火方向。敵遠程火炮反擊我軍剛發射的區域。雙方像是在比誰的炮火更猛、誰的膽子更大。
晚上九點,我們潛入敵軍基地附近的橡膠林,被安排伏擊在教堂花園角落。穿過教堂便是14號公路,距第一道鐵絲網15公尺,距第二連約200公尺。
完成伏擊部署大約在凌晨兩點。我與連長雄哥、政委潤哥一起巡視各排。進入民宅後方花園時,沒有一聲狗吠。安靜得異常。
凌晨三點整,第二連點火。第一道鐵絲網的爆破聲響起,接著第二道、第三道。
幾分鐘後,敵人已確定我軍進攻方向。從基地內開火還擊。第四連火力支援第二連,但無甚效果。第二連因火力中斷好一陣子才再次開炸。
我告訴戰士們緊盯兩條道路,一旦敵人出現就立即開火。我一邊指揮排內弟兄,一邊側耳聽第二連方向的動靜。
17道圍牆。到了早上九點,第二連才突破到第九道。以我的經驗看來,他們傷亡慘重。
近十一點,營政委坎哥與第一連副連長伍哥朝我方陣地走來。此時坎哥本該留在營部,怎麼會出現在我這裡?
坎哥示意我靠近商討。他說:現在由同志你帶隊,聯結爆破裝置,打開側翼通道以牽制敵軍,讓第二連能順利行動。
我接受任務,指派每排至少組成三條爆破繩,一條長度必須達1.5米。完成後由我負責打開第一道鐵絲網。
九條爆破線要炸開九道防線。火力部隊要貼近掩護,當戰士抱炸藥前進時,必須壓制敵火。
正當我製作爆破線時,伍哥與第一連指揮部下令我們停止爆破,立即越過道路,佔領基地東側道路。敵軍已在基地內升起白旗。
我高喊弟兄們前進。離開原地剛走50米,敵軍從新奇教堂屋頂用機槍射擊阻斷我軍行動。我命火箭兵嘉用B41壓制敵火。轟然巨響,敵火熄滅,教堂的水泥碎片灑落在我們頭上。敵人火力太強,即使只剩50米,我軍仍無法接近道路。
我搶過嘉的B41火箭炮。
左肩貼牆,右肩扛著火箭炮,我用瞄準尺對準,屏氣,引爆。火箭彈直擊敵軍機槍火力點,升起一柱白煙。
我再喊前進。一輛裝甲車從敵營飛馳而出。戰士們朝其後方掃射。
為什麼不開火?嘉說:我們後面是己方部隊,前面是自己排的弟兄。
我心想,中計了。敵人升白旗是假,仍不停開火。我們只得全員翻身越過道路。
新奇街與同維基地被濃煙籠罩,炮火震天。
亂葬崗中有一條小道,從營門延伸向東。敵軍欲從此逃脫,被我軍截擊。我們從中午堅守至傍晚,一路戰鬥推進至主營門。
亂葬崗。每座墳墓成了雙方掩體。
在我槍口前,出現一名年輕女子,短髮,一手拿帽、一手拎包。她高聲呼喊某人名字。我猜她在找愛人或丈夫,就在敵營附近。不知她正置身於交火中。
「躺下!馬上離開這裡!」我大聲喊。
一名士兵跑來報告:「報告長官,我們又俘虜了60名敵軍,怎麼處理?」
繩子都不夠用了。我命令:「繳械、脫鞋、脫衣服,推進彈坑裡,派兩人看守!」
我發現一小隊敵人躲在墓後,命令B40射手開火。連發三彈皆落空,因敵人藏身處有墳包掩護。
我命人掩護,我繞左側接近。一穿過草叢便被發現,敵軍AR15一槍命中我胸口,我立刻倒地。
意識尚清,我知道自己未死,便重新振作。怎麼辦?匍匐回去沒力,若再中彈就完了。我調整姿勢開槍,見幾隻腳露出,敵人注意我方掩護部隊。
我屏息開槍,連開兩發,一人中彈倒地。我喊:「投降則生,頑抗則死!」再連開兩槍:「丟掉武器則生,頑抗則死!」再開兩槍。
三顆腦袋冒出,六隻手舉起,一個接一個站起來。
我胸口鮮血湧流至後腰。若此時站起,被敵察覺負傷,必遭補槍。
我坐著開槍,手勢示意三人靠近。
「舉起手來,放下武器,過來!」
「脫鞋,脫衣服!」
我朝地面開兩槍警告。
他們說:「我們有一人受傷。」
我說:「一人為他包紮,一人過來!」
一人走到我面前。
「坐下!舉起雙手!」我左手持槍頂其腋下,右手扶其肩站起。他們這才知道我受傷。
我清楚聽見自己的血在背後淌個不停。新穿的衣服連汗都沒浸過,血水未能吸進布料,直接沿背流成一塊凝在腰間。
「背我去那邊。」
那壯漢背我,兩人互扶走在後頭。四人走在子彈橫飛中。敵我激烈交火,背我者渾身發抖。
「快走,別管它!」我強撐氣力。
我漸漸虛脫,眼前發黑仍故作鎮定。
再走20米我喘不過氣。「停一下。」我氣若游絲。他停下,我滑下背,換個姿勢較能呼吸。
我左臂摟肩、腹靠其背、槍仍在腋下。右手隨時準備射擊。這把捷克製折柄AK剛從敵軍手中奪來,又輕又準。
二十分鐘後,他們將我送回交火戰線。
下午,我到亂葬崗交戰時,不忘觀察四周。這是偵察兵的直覺。約三百米處有間瓜農的小棚子。
我讓權哥派人去拆下一根棍子作擔架,並叫香哥帶兩個最壯的俘虜來抬我。
我把任務交給權哥與三位排長:平、想、雄,叮囑他們設法與連部、營部取得聯絡。連指揮部在新奇街迷路,原本只有我一人指揮四個排。
我想自己撐不過去了。想多說幾句,卻昏迷過去。
意識時斷時續,聽見香哥呵斥俘虜,因為他們喊腳痛肩痛。兩名俘虜正抬我,已被剝光鞋,只穿內衣褲。
我再次昏過去了。
以下是這段越南語文字的完整中文翻譯:
天色已暗。我又醒來了。發現自己正躺在一個市場裡。周圍是許多平民。
一位婦女慌張地說道:「各位戰士,請幫他輸血吧,他失血過多,太虛弱了。」
她拿來一瓶乾血,將血瓶綁在市場的祠堂柱子上。人群散開,讓她有空間為我輸血。
一位開機動車的老伯來了:「戰士們,我來幫一手。需要送傷兵去醫院的話,我可以載去。」
護士覺得這主意合理,叫老伯用車載我去團級軍醫所。
他們連同擔架和正在輸的血瓶一起把我抬上車。
到了地方後,他們把我抬下,放在剛撤離的火力單位的一個120毫米炮坑邊上。
陪我來的護士對兩名運輸兵說:「你們快點把這位同志送到師級的醫療線。」
兩人抬著我奔跑。我時而清醒,時而昏迷。忽然一陣劇烈的顛簸刺痛我全身。「慢一點,我快喘不過氣了,太痛了,各位,太痛了。」我呻吟著,但聲音斷斷續續。
其中一人大聲說:「別呻吟了,我們已經在盡力了!」
忽然,我被扔在田中。夜雨潑灑,天色漆黑。他們跑太快,跌倒了。我又痛又冷。一人說:「弟兄,抱歉,地太滑,看不清。你不會死的,我們走捷徑,會救活你的。」
他們又開始慢慢走,摸索著前進。前面那人踩到一個背包,他們停下來,在裡面找到一塊塑膠布,蓋在我身上。身體立刻暖了些。
前方那人歡呼:「有西瓜,太好了,可以吃一點了!」
捷徑穿過西瓜田。他們又一次把擔架啪地丟在田裡。我說:「麻煩你們把帽子放在我頭下,這樣呼吸比較順。現在平躺著,我沒法呼吸。」他們照做了,把帽子墊在我脖子下,然後去找西瓜吃。多久我不知道。
—「完了,不知道傷兵在哪裡了。」
—「你往那邊找,我往這邊找。記得腳貼著地走,免得踏過擔架卻沒看到。」
我聽著他們交談,卻發不出聲。我就在這裡。如果他們找不到我,今晚我肯定會死在這田裡。
—「喂,傷兵,你在哪裡?呻吟大聲一點!」
—「現在叫他呻吟大聲點,然後耳貼地聽才能辨方向。」
—「喂,傷兵,怎麼該呻吟的時候你不呻吟?你呻吟大聲點,讓我知道你在哪個角落。」
我根本呻吟不出來,根本沒力氣了。
—「喂,傷兵,如果你還沒死,請你拼命呻吟一聲,讓我們知道你還活著。」
我開始能呻吟了。我呻吟,拼盡全力呻吟。
—「這邊,這邊!」
—「哪邊?」
—「就是這邊!」
—「這邊是哪邊?」
—「繼續呻吟,傷兵!」
我又昏過去了。
我聽到兩下啪的一聲耳邊巴掌,把我打醒。我正躺在手術台上。那是一塊竹席,上面鋪了塑膠布,用六根竹竿支起來。這是個流動野戰醫院。
—「他的衣服呢?」
—「不知道。」
—「給他拿條短褲來。」
一位軍醫給我穿上短褲。我看到煤油燈亮著。兩位運輸兵是在晚上十點把我抬到這裡的。
然後是另一對護士把我抬到半地穴式的手術室,裡面掛著一盞風燈。
稻草墊上,傷兵們肩並肩躺著,一片寂靜。
所有人都安靜。我也安靜,看著外頭天已微亮。
護士讓我坐在兩名傷兵中間。一人剛剛斷氣。他們把那人抬走,我就坐在他的空位上。
我腦子清醒了。疼得沒法躺下,躺著就喘不過氣。只能坐著,雙手抱膝。困了,就那樣睡著。
這時是4月30日早上8點。
我身上陣陣發冷。
我看著旁邊那位兄弟。自我進來,他就一直熟睡。
我冷得發抖,看他枕著一個戰鬥包。那是士兵出征時隨身攜帶的裝備袋。包鼓鼓的,我猜裡面有衣服或什麼可以蓋的東西。而我現在,只有一條短褲。
我搖他起來想借用。搖了好久,我摸到他肩膀,怎麼那麼冷?我往下摸他的手、腳,冰冷。他早就死了,身體已僵硬。
我輕聲對他說:「兄弟,我們都是軍人。你已經走了,如果你有長衣長褲,能不能讓我借一套?我太冷了。拜託你。」說完,我扶起他的頭,打開那包。
裡面裝滿了戰鬥裝備。我只拿了長衣長褲,包好後重新墊回他頭下,就像剛才那樣。
一位軍醫經過,我告訴他這裡有人去世了。
擔架兵把他抬走了,我的空間也寬一點了。
十分鐘後,護士又抬來一位傷兵放在原位。他們抬進一個,抬出兩具遺體。一直如此。這個師級軍醫單位有數十個這樣的臨時手術棚。
那位兄弟走了。我淚流滿面。痛惜我的戰友。孤獨而寒冷地死去。他叫什麼?哪裡人?親人是誰?昨晚如果我運氣不好,也會像他一樣。
這篇文字極具真實感,描繪了一位重傷越共士兵在生死邊緣的體驗與同袍之情,也反映出戰場醫療的殘酷與混亂。若需整理成散文或具備評論背景,我可協助補充。
以下是這段越南語的中文翻譯:
三個月後,我康復回到部隊,護士告訴我,當時為我輸血的那位婦女是一位醫生,在新葵(Tân Qui),霍門縣(Hóc Môn)開設私人診所。她與當地民眾自願一起出來搶救傷兵。
一個星期天下午,我請那位護士帶我去她家,想親自向救了我一命的人致謝。
我們到的時候,正好她牽著腳踏車要出門。護士介紹了我,並簡單說明了我們來的原因。
她的神情與當時急救時的慌張樣子完全不同,此刻她的臉上顯得十分冷淡與疏離。兩個人一下子都變得有些尷尬。她說:「你們戰士就在這等,或者出去走走再回來,我要上西貢辦點事,很快就回來。」
我們在她家旁邊的茶水攤等了一個小時,她始終沒回來。我們只好回部隊。
下個星期天我又去了。大門緊閉。我照樣去上次的茶水攤坐下。聊了一會兒,賣水的婦人告訴我,她已經在兩天前走偷渡路線離開了。她的丈夫是1968年陣亡的越南共和國上尉,這些年她獨自撫養孩子長大。
這段文字平靜中帶有沉重,展現戰爭過後人與人之間的距離、流離,以及難以言說的無奈與身份交錯的歷史。需要的話我可以幫忙擴寫、改寫或加入歷史背景說明。
22.
Đơn vị lên xe về Tây Ninh. Hành quân bộ xuống Củ Chi. Người dân bí mật dẫn cả sư đoàn vào làng. Ngay giữa lòng địch mà sao dân ở đây vẫn sinh hoạt bình thường. Ban đêm đoàn điện ảnh cơ động hát hò biểu diễn dưới vòm cây. Buổi trưa anh em mắc võng nằm đung đưa giữa các cây xoài.
Nhiệm vụ trên giao sư đoàn 320 phải đánh căn cứ Đồng Dù, cánh cửa đi vào thủ đô Sài Gòn.
Đêm trước chiến dịch chị chủ nhà nói nhỏ, cộng sản đánh vào Đồng Dù lần này nữa là lần thứ chín rồi đó. Các năm trước đánh được mấy giờ là chúng nó lấy lại, lần nào lâu nhất là được một ngày một đêm. Cộng sản hy sinh ở đó quá nhiều. Dân ở đây nhờn rồi giờ thấy đánh nhau ở Đồng Dù là đi hôi của.
Bảy giờ sáng ngày 28 tháng 4. Cán bộ trung đội trở lên có mặt tại tiểu đoàn bộ để nhận nhiệm vụ trên sa bàn. Sa bàn làm bằng đất giữa bãi hoang ngoài đồng ruộng. Toàn bộ căn cứ Đồng Dù được rút nhỏ lại chừng ba mươi mét. Bao gồm: 120 lô cốt vòng ngoài; 17 lớp hàng rào; Hai cổng chính; 4 tuyến giao thông hào vây quanh; Phía giữa đồn có đường rải nhựa để địch đi lại các kho; Có 4 khu gia đình cách nhau 900m, ban chỉ huy sư đoàn địch đóng giữa.
Đại đội 2 là đại đội chủ công nhận nhiệm vụ mở cửa.
Trung đội của tôi là trung đội chủ công được phân công cắm cờ lên nóc hầm sư đoàn chỉ huy sư đoàn địch.
Hôm nay tôi quyết định mặc chiếc áo mới. Tôi linh cảm có thể đây là lần ra trận cuối cùng.
Trận đánh cuối cùng? Tôi sẽ chết hay sau trận này là kết thúc? Tôi làm sao biết được. Chỉ cảm thấy một trận đánh kịch liệt trước mắt.
Nhà thơ Tố Hữu vào Tây Nguyên thấy anh em bộ đội quần áo rách nát, bẩn thỉu, về ngoài bắc ông đề nghị Bộ hậu cần cấp cho mỗi lính một bộ quần áo. Là chúng tôi nghe trên báo xuống vậy. Nói là một bộ nhưng thực tế mỗi người được một chiếc.
Người có áo thì không có quần. Tôi được cấp chiếc áo. Tôi gọi đó là áo nhà thơ.
Hôm nay tôi mặc áo nhà thơ ra trận đánh lớn.
Ba giờ chiều ngày 28 tháng 4 lệnh xuất kích.
Bầu trời như sắp có cơn mưa lớn vì đen ngòm khói bom đạn pháo. Ba tiếng đồng hồ sau lại thấy đạn của ta như bó đuốc bay thẳng vào đồn địch. Máy bay địch thả pháo sáng và ném bom ở các hướng mà quân ta đang nổ súng. Pháo tầm xa phản lại vùng pháo ta vừa bay lên. Cứ thế hai bên như thách thức ai mạnh hơn, súng ai to hơn, ai gan lỳ hơn.
Chín giờ đêm chúng tôi lọt vào rừng cao su gần đồn địch và được bố trí nằm ngay ở góc vườn nhà thờ. Qua nhà thờ là tới đường 14, cách hàng rào thứ nhất 15 mét, cách đại đội 2 chừng 200 m.
Xong đội hình mai phục có lẽ tầm hai giờ sáng. Tôi cùng anh Hùng đại đội trưởng và anh Nhuần chính trị viên đi kiểm tra các trung đội một lượt. Đi vào các khu vườn của dân ngay phía sau dãy phố mà không có một tiếng chó sủa. Yên tĩnh lạ thường.
Đúng ba giờ sáng đại đội 2 điểm hỏa. Quả mìn mở cửa của lớp hàng rào thứ nhất bung lên. Tiếp tục lớp thứ hai, lớp thứ ba.
Vài phút sau địch đã xác định được hướng tấn công của ta. Từ trong đồn hỏa lực bắn ra. Hỏa lực đại đội 4 chi viện cho đại đội 2 không thấm vào đâu. Đại đội 2 bị gián đoạn lâu mới nổ tiếp được một quả.
Tôi bảo anh em phải dán mắt vào hai hướng đường nếu địch đến là nổ súng. Vừa chỉ huy anh em ở trung đội vừa lắng tai nghe về hướng đại đội 2.
17 lớp cửa mở. Giờ đã chín giờ sáng mà đại đội 2 mới mở đến lớp thứ 9. Với kinh nghiệm mở cửa tôi biết đại đội 2 bị thương vong nhiều.
Gần mười một giờ trưa, ông Cẩn chính trị viên trưởng của tiểu đoàn và anh Năm đại đội phó đại đội 1 tiến lại hướng chúng tôi. Lúc này lẽ ra ông Cẩn phải ở ban chỉ huy tiểu đoàn chứ sao lại đến tận trung đội tôi?
Ông Cẩn ra hiệu tôi lại gần hội ý. Ông nói: Bây giờ đồng chí Ngọc phải tập hợp anh em lại và kết nối bộc phá để mở cửa phụ nhằm thu hút lực lượng địch về phía mình để đại đội 2 dễ hoạt động.
Tôi nhận nhiệm vụ. Phân công mỗi tiểu đội kết cho được ba quả bộc phá. Yêu cầu một quả phải đủ dài 1.5m. Kết xong tôi sẽ mở lớp hàng rào đầu tiên.
Chín quả phải mở được chín lớp. Còn hỏa lực bám sát anh em. Khi anh em ôm bộc phá lên mở cửa phải kiềm chế hỏa lực địch.
Đang ngồi kết bộc phá thì anh Năm và ban chỉ huy đại đội 1 lệnh cho trung đội tôi phải dừng động tác mở cửa và ngay lập tức phải vượt đường để chiếm lấy mặt đường phía đông đồn. Trong đồn địch đã kéo cờ trắng.
Tôi hô anh em tiến. Rời khỏi vị trí được năm mưoi mét thì một khẩu đại liên bên nóc nhà thờ T ân Qui bắn xuống cản đường đội hình. Tôi lệnh cho anh Ca là xạ thủ B41 giập ngay hỏa lực địch. Tiếng nổ ầm, hỏa lực địch tắt và các mảnh vỏ tường xi măng nhà thờ bay xuống đầu chúng tôi đang tiến. Hỏa lực trong đồn địch bắn ra làm cho quân ta không tiếp cận được mặt đường dù chỉ còn năm mưoi mét nữa.
Tôi giật khẩu B41 của anh Ca.
Vai trái dí sát tường nhà thờ vai phải là khẩu B41 tôi lấy thước ngắm chuẩn xác. Nín thở. Bóp cò. Quả B41 lao thẳng vào miệng lô cốt địch đang nhả đạn đỏ lừ về hướng quân ta. Cột khói trắng dựng lên.
Tôi tiếp tục hô tiến. Một chiếc xe bọc thép từ trong đồn vụt qua. Anh em bắn vuốt đuôi.
Sao không nổ súng? Anh Ca nói: Phía sau lưng quân ta nằm dày, phía trước là anh em trung đội.
Tôi thầm nghĩ, ta bị địch nghi binh rồi. Kéo cờ trắng mà chúng vẫn nổ súng không ngừng. Tất cả chúng tôi ôm súng lăn qua đường.
Bầu trời phố Tân Qui và căn cứ Đồng Dù mù mịt khói đen. Tiếng nổ rầm trời.
Giữa bãi tha ma có một con đường mòn chạy dọc từ cổng đồn ra phía đông. Bị quân ta chặn đánh địch nhằm hướng này chạy thoát. Chúng tôi bám trụ tại đây từ trưa và giờ đã gần hết buổi chiều. Vừa đánh vừa lấn tới phía cổng chính.
Bãi tha ma. Từng ngôi mộ làm điểm tựa cho cả ta và địch.
Trước mũi súng tôi xuất hiện một người con gái trẻ, tóc ngắn, tay cắp nón tay xách túi. Cô gọi to tên ai đó. Tôi đoán cô đi tìm người yêu hoặc chồng đang đâu đây quanh đồn địch. Cô không biết mình đang đi giữa làn đạn ta và địch.
Cô kia nằm xuống hoặc ra khỏi ngay trận địa. Tôi quát to.
Một cậu lính chạy lại: Báo cáo anh, ta bắt được thêm sáu mươi tù binh giờ phải làm sao?
Không còn đủ dây để trói nữa. Tôi lệnh: Lột hết vũ khí, giày tất, quần áo rồi đẩy xuống hố bom, cho hai thằng gác.
Tôi phát hiện một tốp địch nấp sau ngôi mộ. Lệnh cho xạ thủ B40. Xạ thủ bắn ba quả đều trượt. Vì địch có mô đất trên mộ che chắn.
Bảo anh em yểm trợ, tôi vòng sang trái. Lướt qua bụi cây bị chúng phát hiện ra. Viên đạn AR15 bắn trúng ngực. Tôi gục xuống giây lát.
Biết mình chưa chết, tôi lấy lại tinh thần. Giờ sao? Bò quay trở lại thì không đủ sức. Mà trúng thêm đạn cũng toi luôn. Tôi lấy lại tư thế nằm bắn. Nhìn thấy mấy chân địch thò ra. Lúc này chúng nó chú ý đến anh em đang nổ súng yểm trợ cho tôi.
Tôi nín thở bóp cò. Hai phát liên tục. Một thằng lăn ra khỏi điểm tựa. Tôi hô to: Hàng thì sống chống thì chết. Bắn luôn hai phát. Hô tiếp: Bỏ thì sống chống thì chết. Bắn thêm hai phát. Hô tiếp. Ba cái đầu nhô lên, sáu cánh tay giơ cao, từng đứa đứng dậy.
Máu trong ngực tôi đang phun ra phía sau lưng. Nếu đứng dậy có thằng phát hiện ra tôi trúng thương sẽ bắn trả. Bắn trả tôi chết chắc.
Tôi tư thế ngồi bắn. Tay ra hiệu ba đứa lại gần mình.
- Giơ tay lên. Bỏ súng xuống. Lại đây!
- Cởi giày. Cởi quần áo!
Tôi bắn hai phát xuống đất, trước mặt chúng.
- Thưa anh, bọn em có một thằng bị thương.
- Một thằng băng bó cho thằng kia. Một thằng lại đây.
Một thằng tiến lại sát trước mặt tôi.
- Mày ngồi xuống. Giơ hai tay lên.
Một tay tôi cầm súng kề dưới nách nó. Một tay tôi vịn vai nó đứng dậy. Lúc này chúng mới biết tôi bị thương.
Tôi nghe rõ tiếng máu mình đang chảy re re sau lưng. Áo mới mặc chưa thấm mồ hôi lần nào, máu chưa ngấm được vào sợi vải nên trôi theo lưng đọng thành cục nằm giữa và một bên thắt lưng.
- Cõng tao lại đằng kia.
Thằng to khỏe cõng tôi. Hai thằng kia dìu nhau đi sau. Bốn chúng tôi đi giữa tiếng đạn không phút nào ngơi giữa ta và địch. Hai bên đang giao tranh giữ dội. Thằng cõng tôi run lẩy bẩy.
- Đi đi, mặc xác nó. - Tôi cố hết sức lên giọng.
Tôi đang kiệt sức dần. Đầu óc choáng váng. Thấy nổ đom đóm mắt nhưng vẫn giả vờ mình không vấn đề gì.
Đi thêm hai mươi mét tôi thấy như không thở được nữa. Tôi thều thào. Mày đứng lại. Nó đứng lại và tôi tụt xuống khỏi lưng, tìm một tư thế khác dễ thở hơn để đi tiếp.
Tay trái bá vai, bụng dựa vào lưng và súng vẫn để nguyên dưới nách nó.
Tay phải luôn để ở vị trí nòng cò, lê xuyên từ nách trái sang nách phải của nó. Khẩu AK báng gấp của Tiệp mới cứng, vừa nhẹ vừa chính xác. Khẩu súng này tôi mới lấy được của địch.
Hai mươi phút sau chúng đưa tôi về đến tận nơi anh em đang nổ súng.
Buổi chiều, khi đến bãi tha ma tôi vừa nổ súng vừa đảo mắt quan sát xung quanh. Phản xạ của lính trinh sát khi đến một địa hình mới. Tôi thấy cách chừng ba trăm mét có nhà chòi của dân giữ dưa hấu.
Tôi nói với anh Quyền cho người lại nhà chòi tháo một đòn tay làm đòn khiêng tôi về đon vị quân y. Và bảo anh Hường áp tải hai thằng tù binh khỏe nhất đang ngồi dưới hố bom lên khiêng tôi.
Tôi bàn giao nhiệm vụ cho anh Quyền và ba tiểu đội trưởng là Bình, Tưởng, Hùng. Dặn họ cố gắng bắt liên lạc với ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn. Ban chỉ huy đại đội bị lạc khi đi dọc đường phố Tân Qui. Một mình tôi chỉ huy cả bốn trung đội.
Tôi nghĩ mình sẽ không qua khỏi. Muốn nói nhiều hon nữa. Nhưng rồi ngất xỉu khi nào không biết.
Lúc tỉnh lúc mê tôi nghe tiếng anh Hường đang quát tháo tù binh vì họ kêu đau chân đau vai. Hai tù binh đang khiêng tôi đi. Họ bị lột giày và chỉ mặc quần áo lót.
Tôi thiếp đi.
Trời xẩm tối. Tôi lại tỉnh. Thấy mình đang nằm trong một cái chợ. Xung quanh nhiều người dân.
Một người phụ nữ giọng hốt hoảng: Các chú bộ đội oi cho tôi tiếp máu người này nhé, người này thiếu máu trầm trọng, yếu quá rồi.
Người phụ nữ mang chai máu khô đến. Cột chai máu vào cái cột đình của chợ. Người dân tản ra để chị thao tác truyền máu cho tôi.
Một bác đánh xe lam đến: Bộ đội cho tôi giúp một tay với. Cần chở thương binh đến bệnh viện nào tôi chở đi.
Anh y tá nghe hợp lý. Bảo bác xe lam chở tôi tới phẫu quân y trung đoàn.
Họ đặt nguyên cả đòn cáng ngang xe lam và mang theo chai máu đang truyền.
Đến nơi họ cáng tôi xuống, đặt ngang trên miệng hố pháo 120 ly của đơn vị hỏa lực vừa rời khỏi.
Anh y tá đi cùng tôi đến đây nói với hai anh vận tải: Các anh khẩn trương đưa anh này lên tuyến sư đoàn.
Hai anh vận tải khiêng tôi chạy. Tôi nằm trên cáng lúc tỉnh lúc mơ. Một tiếng dằn mạnh đau nhói. Từ từ các anh ơi tôi không thở được nữa. Đau quá các anh ơi đau quá các anh ơi. Tôi rên ư ử không thành tiếng.
Một trong hai người nói to. Đừng rên nữa, bọn tao đang cố hết sức đây.
Bất ngờ tôi nằm xoài giữa đám ruộng. Trời mưa, đêm tối. Các anh chạy nhanh quá vấp ngã. Tôi đau điếng. Vừa đau vừa rét. Một trong hai người lại nói: Chú mày thông cảm, đường trơn quá không nhìn thấy gì. Chú mày sẽ được cứu sống, không chết đâu mà lo. Bọn tao đang đi tắt cho nhanh.
Rồi họ lại bước chậm. Họ đang dò đường. Chân người đi trước giẫm phải cái ba lô. Họ dừng lại, lục tìm được tấm ni lông trùm lên người tôi. Tấm ni lông trùm lên tôi ấm hẳn.
Người đi trước nói như reo: Dưa hấu mày ơi, ăn đã.
Đường tắt qua ruộng dưa hấu. Hai người lần nữa thả phạch cáng xuống giữa ruộng. Tôi nói hai anh đặt chiếc mũ lên đầu cho dễ thở hơn, nằm phẳng thế này tôi không thở được. Họ đặt mũ vào gáy tôi. Họ đi tìm dưa hấu. Họ đi tìm dưa hấu ăn trong bao lâu tôi không biết.
- Chết cha không biết thằng thương binh đâu rồi.
- Tao và mày đi tìm hai hướng. Nhớ xát chân vào mặt đất khỏi bước qua cáng mà không biết.
Tôi nghe hai anh nói với nhau mà không sao lên tiếng được. Tôi ở đây. Các anh không tìm được chắc tôi chết ở đây trong đêm nay.
- Ơi thằng thương binh. Mày đang chỗ nào rên thật to lên.
- Bây giờ phải bảo nó rên thật to rồi ghé tai xuống đất nghe cho rõ.
- Ơi thằng thương binh sao khi cần rên mày không rên. Mày rên thật to để tao ghé tai xuống đất xem mày nằm ở góc nào.
Tôi không rên được, không làm sao rên được.
Tôi còn sức đâu nữa mà rên hở các anh.
- Ơi thằng thương binh nếu mày chưa chết thì mày cố rên lên để bọn tao còn biết.
Tôi bắt đầu rên được. Tôi rên. Rên to. Bao nhiêu sức dồn hết vào mà rên.
- Hướng này mày ơi.
- Hướng nào?
- Hướng này.
- Hướng này là hướng nào.
- Rên tiếp đi nữa thằng thương binh ơi.
Tôi lịm đi.
Tôi nghe hai cái tát bộp bên tai rồi mở mắt. Tôi đang nằm trên bàn mổ. Bàn mổ là tấm liếp tre trải ni lông dựng lên trên sáu cái cọc tre. Đây là bệnh viện dã chiến cơ động.
- Quần áo đâu?
- Không biết.
- Lấy cho anh ta cái quần đùi.
Anh y sĩ mặc chiếc quần cho tôi. Tôi nhìn thấy đèn măng sông sáng. Hai anh vận tải khiêng tôi đến đây lúc mười giờ đêm.
Và giờ hai anh y tá khác khiêng tôi đến hầm phẫu. Hầm phẫu nửa chìm nửa nổi có treo một chiếc đèn bão.
Trên thảm rơm thương binh nằm san sát. Tất cả đều im lặng.
Tất cả đều im lặng. Tôi cũng im lặng. Nhìn ra ngoài trời đã hửng sáng.
Y tá đặt tôi ngồi giữa hai thương binh. Một người vừa tắt thở. Họ khiêng người đó ra và tôi thay vào chỗ trống.
Đầu óc tôi đã tỉnh táo. Tôi đau không nằm được. Nằm thì không thở được. Cứ ngồi hai tay ôm đầu gối. Buồn ngủ cứ thế mà ngủ.
Lúc này là tám giờ sáng ngày 30 tháng 4.
Trong người tôi lên từng cơn rét.
Tôi nhìn sang người anh đang nằm bên cạnh. Từ khi tôi vào đến giờ anh vẫn ngủ say.
Tôi rét run cầm cập. Nhìn thấy anh đang gối đầu lên cái bọc chiến đấu. Đó là cái bọc của người lính mỗi lần ra trận mang theo bên người. Cái bọc vẫn còn căng. Tôi đoán trong đó có quần áo dài hoặc cái gì đó để đắp. Trên người tôi lúc này vẫn chỉ một chiếc quần đùi.
Tôi lay anh dậy để xin mượn. Lay mãi. Tay tôi sờ vào vai anh. Sao lạnh thế này. Tôi mò xuống tay anh xuống chân anh. Lạnh ngắt. Anh đã chết từ khi nào. Cơ thể đã cứng đi rồi.
Tôi nhìn anh nói nhỏ: Anh ơi ta đều lính cả. Anh đi rồi thì anh có cái áo cái quần dài nào cho tôi. Tôi rét quá. Anh cho tôi xin anh nhé. Nói xong tôi đỡ đầu anh lấy cái bọc.
Trong bọc vẫn đầy đủ các loại đồ phục vụ chiến đấu. Tôi chỉ xin anh bộ quần áo dài. Buộc lại gọn gàng, kê lên đầu cho anh như khi nãy.
Y sĩ đi qua. Tôi báo ở đây có người chết rồi.
Nhân viên đưa cáng khiêng anh đi. Chỗ tôi ngồi rộng hơn một tý.
Mười phút sau y tá lại cáng một người khác nằm xuống chỗ anh. Khiêng một anh thương binh vào, khiêng hai cái xác ra. Chốc chốc lại như vậy. Đơn vị quân y của sư đoàn biết mấy chục cái lán như thế này.
Anh đi rồi. Hai hàng nước mắt tôi đầm đìa. Xót xa đồng đội. Chết cô đơn lạnh lẽo. Anh tên gì quê anh đâu người thân của anh là ai. Đêm qua nếu tôi không may thì cũng giống như anh vậy thôi.
*
Ba tháng sau bình phục trở về đơn vị tôi được anh y tá cho biết người phụ nữ truyền máu cho tôi là bác sĩ có phòng mạch riêng ở Tân Qui, huyện Hóc Môn. Chị cùng người dân tình nguyện đi cấp cứu thương binh.
Một chiều chủ nhật tôi nhờ anh y tá đưa đến nhà chị nói lời biết ơn người đã cứu mạng.
Chúng tôi đến vừa khi chị đang dắt xe ra khỏi cổng. Anh y tá giới thiệu tôi và nói qua lý do sao chúng tôi lại đến nhà.
Khác hẳn với vẻ hốt hoảng hôm cấp cứu tôi, khuôn mặt chị lúc này nhìn thật xa cách và thờ ơ. Hai anh em tự nhiên lúng túng. Chị nói: các chú bộ đội cứ chờ đây, hoặc đi đâu đó một lúc rồi quay lại, chị lên Sài Gòn có chút việc rồi về.
Ngồi chờ chị ở quán nước sát bên nhà một tiếng đồng hồ chị vẫn chưa về. Chúng tôi phải về đơn vị.
Chủ nhật tuần sau tôi lại đến. Cửa đóng. Tôi sang quán nước hôm trước ngồi. Trò chuyện một lúc người bán nước cho biết chị đã theo đường vượt biên cách đây hai hôm rồi. Chồng chị là đại úy Việt Nam Cộng hòa bị giết năm 1968. Bao nhiêu năm nay chị một mình nuôi con.
以下是原文的完整中文翻譯:
23.
我被轉送到175軍醫院外科治療。負責為我建立病歷並治療的是蘭醫生。
十天過去,我仍然呼吸困難,體力極度衰弱。
每天早上,病患按標準配發一塊麵包和一盒牛奶。那天早上我虛弱得吃不下。蘭醫生來打針。平時都是護士打針,不知為什麼這天早上卻是他親自來。針剛拔出我就昏迷過去,不省人事。
醒來後,我聽見隔壁病床的病患講述發生在我身上的事:打完針後,我既沒把褲子拉上,也沒轉身,腳也沒落地。他走過來搖我提醒,才發現我已昏迷。他趕緊叫正在隔壁病房巡診的醫生。病房間以玻璃隔開,從這邊可以清楚看到那邊。醫生們趕來,把我翻過身、量血壓、掀開眼皮檢查瞳孔。不清楚是藥物過敏、過量,還是其他原因,只知道後來蘭醫生又為我注射了一劑藥,然後觀察直到我醒來。
從那天起,我變成了特殊病患,獲得蘭醫生特別關照。他每天三次為我打針。我趴著,他一下子就從我肺裡抽出一管充滿血膿的液體。我得的是肺動脈阻塞,這正是導致呼吸困難的原因。
在醫院的將近三個月裡,我所接受的注射與服用的藥物多到數不清。每天三針。到第三個月時才減為每天兩針。
蘭醫生每天來探視,鼓勵我。有時不是他的值班日,他也會抽空來坐幾分鐘,聊上幾句。我能感受到他對我的真誠關懷。
我開始能坐起來,慢慢練習走路。某天傍晚吃完飯,蘭醫生邀我去他家走走,換個心情。他的家就在醫院園區內。
我答應了。他一步步扶我走,一手拄拐杖,一手靠著他,就像一個學步的孩子。
他的家整潔溫馨。他的妻子三聲音柔和,說話溫婉。她泡了茶,端出一盤糖果餅乾。他們的孩子圍著我走來走去,帶著好奇與親切的目光看著我。她自我介紹說自己是竹篙醫院(Chợ Rẫy)護理人員。那晚的氣氛溫馨融洽,讓我不再對第一次踏進西貢人家感到拘謹。
後來他又牽我去幾次,之後我便自己拄拐杖過去。住院久了會悶,我就起身去找孩子們玩。他們問了我許多小朋友常會好奇的問題,有些我答不上,就笑笑帶過。
有一次她端出一杯冰淇淋請我。我舀了一勺,冰淇淋真好吃。我正準備再舀一勺,突然警覺——如果這裡面下了毒怎麼辦?我想起在綏和時首長的提醒。現在局勢混亂,敵我難辨。我內心動搖,明明想敞開心胸、分享心情,但那一刻我靜靜地放下湯匙,對她說:「我吃這些就夠了。」那第一次吃到的冰淇淋冰涼滋味至今仍留在舌尖。
大姐——他們的姊姊第一次見面就像老朋友般與我交談,可能他們事先向她提過我。
她問我北方是怎麼發展經濟的。他們是1954年自北方南遷的。我回答我們種田,組成合作社。她認真地聽著。雖然我身體孱弱,但我內心仍以解放軍身分自豪。我清楚地回答她關於北方鄉親的疑問。
「北方怎麼幹活?」這句話,後來我又從許多西貢人嘴裡聽到。有個女人聽我說我們鄉下是合作社運作方式時,笑了出來:
「小弟啊,這樣做人腦子會越來越笨吧?」我一聽臉紅了,覺得被侮辱。我平靜回應:「那是看個人怎麼想,笨不笨取決於個人是否肯學習成長。」
她繼續說:「你就是保守。在我看來,這樣的經濟方式根本無法自由發展。要等生產隊長敲鑼,農民才拿鋤頭、牽牛出去耕田。沒敲鑼就坐在家裡等。除了種田,不知道拓展其他經濟,怎麼發展?」
我忍住。自己是軍人,他們是老百姓,軍民如魚水,該謹言慎行。無論如何都不能引起敵意。
後來有指令:幹部家屬不得住在醫院區域。蘭醫生一家要搬出,他說要帶我一起去看預計購買的新房。我說:「如果你信我、尊重我那就去吧,其實我從鄉下到山裡打仗,哪懂買房這事?」
他妻子勸我陪他去,她說有我一起她才安心。
真的嗎?有我她才安心?我感受到她話裡的客氣。我正好心情鬱悶,能外出走走也好,順便參觀西貢。
那是一棟兩層樓的華麗洋房。我一走進去便感到眼花撩亂。這是客廳,那是臥室,這是廚房,那是衛浴。我跟著他走。還記得在西原上政治課時,老師教我們西貢因地狹人稠才蓋高樓,不像北方那樣寬敞。他們的富裕外表是美帝投資造成的。想到這些提醒,我很快就恢復平靜。他說這房子要多少兩黃金,問我意見。我淡定回答:「這房子不錯,離醫院近,對你上班方便。」
這幾天蘭醫生沉默、憂鬱。他來病床邊坐下,我們一起在醫院園區散步。
— 你聽過市政廣播連續播放的消息嗎?
— 我有聽。
— 你是軍官,有上尉軍階,應該服從命令。你應該去區公所登記。他們要你填什麼表就填,要你登記什麼就照做。你是軍醫,為軍人治病,沒什麼可怕的。去接受改造學習幾年就可以回來了。
我出院那天,三送來一包糖果和香菸當作告別禮物。
我說:「感謝你們一家人。我只收一包糖一包菸,帶回部隊送給兄弟們。」
「其餘的我不能收。我們當兵的不能拿這些東西,帶回去會被說成是打仗時搶來的,那就是戰利品。戰利品是用戰友的鮮血換來的,我們認為拿這些東西就是對不起戰友。如果妳有心,等我退伍了,妳要給多少我都會收。」
我回到西原後收到她的來信,詢問我的傷勢是否已癒,是否已回北方。她說孩子們和大姐經常提起我,盼望早日再見。信的最後,她告訴我蘭醫生已聽從我建議,到區公所登記,目前正在接受改造學習。
我還沒來得及回信,又過了十天,她再來一封信,寫了蘭醫生現在被關的地點,希望我能寫信去鼓勵他。
接著又是一封。我認真思索每句話,希望能強烈鼓勵她。她很快回信,裡面我感受到她有一種難以言說的急切。
我只是一個兵,我只能做到這些。我不希望她難過,但我也不知道該說什麼,感到羞怯。她寄信來,我卻沉默不語。
最後一封信是1975年12月8日寫的:
「他自6月23日被送去改造學習,到現在將近半年還沒回來。我一邊工作一邊照顧孩子們,心裡掛念著他的健康。大姐和我都消瘦了,女人總是多愁善感。以前一家團聚慣了,現在分離,無法見面,我日夜憂慮,吃不好睡不好。雖然如此,我知道革命政府寬大,給人改過自新的機會,也照顧飲食起居,這讓我也有信心。
我家有一位親叔叔,是共產黨員,也是教育幹部,自1945年以來一直在南方革命根據地工作。他曾在兩次被捕關押於昆島時獲得你們軍隊的協助。叔叔也幫我寫了保證書,隨著我提交的申請表,經地方政府核實。不知道申請是否會被審核,因為已經兩個月沒收到他的來信。你能不能寫封信去問候他?如果你寫信,那會是他極大的安慰。
孩子們現在都去上學了,而且成績也很好。他們很想念你,也祝福你能早日與家人團聚,就像他們盼望父親蘭醫生回來一樣。
我祈禱上天,願我們全家與你能在一次溫馨的家庭聚餐中團聚。」
三 敬上
如需整理成敘事文章或加入歷史註釋、轉為散文或新聞風格,我可以繼續協助。
23.
Tôi được chuyển về điều trị tại khoa ngoại Viện quân y 175. Làm bệnh án và điều trị cho tôi là bác sĩ Lân.
Qua mười ngày tôi vẫn đang trong tình trạng khó thở. Sức khỏe suy kiệt.
Mỗi buổi sáng bệnh nhân tiêu chuẩn được một cái bánh mỳ và hộp sữa. Sáng nay tôi mệt lả không ăn nổi. Bác sĩ Lân đến tiêm. Mọi khi y tá tiêm nhưng không hiểu sao sáng nay lại là bác sĩ. Rút kim tiêm xong tôi lịm đi không biết gì nữa.
Tỉnh dậy tôi nghe anh bệnh nhân giường bên cạnh tường thuật lại chuyện đã xảy ra với mình. Sau khi tiêm xong tôi không kéo quần lên, không quay người lại, không bỏ chân xuống. Anh sang lắc người tôi nhắc nhở thì biết tôi đã mê man. Anh gọi bác sĩ đang thăm khám phòng bên kia. Các phòng ngăn cách bằng tấm kính nên từ phòng này nhìn rõ sang phòng kia. Các bác sĩ có mặt. Họ lật người tôi lại, đo huyết áp, kéo xem tròng mắt. Không rõ tôi bị sốc thuốc, thuốc quá liều hay vì lý do gì, chỉ biết sau đó bác sĩ Lân tiêm thuốc cho tôi rồi quan sát chờ tôi tỉnh dậy.
Từ hôm đó tôi trở thành bệnh nhân đặc biệt, được bác sĩ Lân quan tâm nhiều hơn những bệnh nhân khác. Mỗi ngày tôi phải tiêm ba lần. Tôi nằm sấp. Bác sĩ Lân chọc một phát kéo ra từ phổi một xi lanh đỏ ngầu máu mủ. Tôi bị tắc động mạch phổi. Đó chính là nguyên nhân khiến khó thở.
Số thuốc tôi phải tiêm và uống trong suốt gần ba tháng nằm viện nhiều không biết bao mà kể. Mỗi ngày ba phát tiêm. Sang tháng thứ ba giảm xuống còn hai phát mỗi ngày.
Bác sĩ Lân hàng ngày xuống thăm, động viên tinh thần tôi. Những hôm không phải phiên trực anh cũng ghé qua vài phút hỏi han dăm ba câu vui vẻ. Tôi cảm nhận được sự quan tâm chân thành anh dành cho mình.
Tôi bắt đầu ngồi dậy rồi đi lom khom. Một buổi chiều ăn cơm xong bác sĩ Lân qua rủ tôi sang nhà chơi cho thay đổi không khí. Ngôi nhà anh ở trong khuôn viên bệnh viện.
Tôi đồng ý đi. Anh dắt tôi từng bước chậm chạp. Một tay tôi cầm nạng một tay dựa vào anh như đứa trẻ lần đầu tập đi.
Ngôi nhà anh thật gọn gàng, ấm cúng. Vợ anh là chị Sâm giọng nhỏ nhẹ từ tốn. Chị pha trà. Đưa ra một đĩa bánh kẹo. Những đứa con đi lại quanh phòng quanh chỗ tôi ngồi nhìn tôi vẻ tò mò và quý mến. Chị giới thiệu mình là nhân viên điều dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy. Không khí thân mật buổi tối giúp tôi bớt ngại ngùng khi lần đầu tiên bước vào một ngôi nhà ở Sài Gòn.
Anh dắt vài lần, sau đó tôi tự sang một mình. Nằm viện mãi cũng buồn, tôi lại dậy chống nạng đến chơi với bọn trẻ. Chúng hỏi tôi những câu trẻ nhỏ vốn hay tò mò. Câu nào tôi không trả lời được thì cười trừ.
Một lần chị mang kem cốc ra mời tôi. Tôi xúc một thìa. Kem ngon quá. Tôi định xúc thêm thìa nữa bỗng giật mình cảnh giác. Lỡ người ta bỏ thuốc độc thì sao. Tôi nhớ lời thủ trưởng nhắc nhở hôm ở Tuy Hòa. Bây giờ tình hình đang hỗn loạn khó phân biệt địch ta. Trong lòng tôi xúc động. Trong lòng tôi muốn đón nhận muốn san sẻ tâm tư nhưng phút chốc ấy đột nhiên tôi thả chiếc thìa xuống bên cạnh cốc kem rồi từ tốn nói với chị em ăn thế đủ rồi. Vị kem lạnh lần đầu tiên nếm thử thấm lưỡi tôi tới ngày hôm nay.
Chị Hai - chị gái của anh chị lần đầu tiên gặp tôi đã trò chuyện như quen thân từ lâu rồi. Có lẽ anh chị đã nói sơ qua về tôi cho chị biết.
Chị Hai hỏi tôi ngoài Bắc cung cách làm ăn kinh tế ra sao. Họ cũng là dân Bắc nhưng di cư vào Nam năm 1954. Tôi trả lời rằng chúng tôi làm ruộng, thành lập tổ hợp tác xã. Chị chăm chú lắng nghe tôi nói. Tôi mặc cảm bệnh tật nhưng trong lòng kiêu hãnh là anh bộ đội giải phóng. Tôi trả lời rành rẽ những thắc mắc của chị về bà con ngoài Bắc.
Ngoài Bắc làm ăn theo kiểu gì là câu tôi được nghe những người Sài Gòn hỏi thêm nhiều lần sau đó nữa. Một người phụ nữ đã chê cười khi nghe tôi nói ngoài quê mình làm ăn theo cung cách hợp tác xã.
“Chú này, nếu làm như vậy thì đầu óc con người ta ngày càng ngu đi nhỉ”. Tôi nóng mặt vì tự ái. Tôi điềm đạm trả lời: “Cái đó là tùy suy nghĩ của chị thôi. Ngu hay không là tự cá nhân đó phát triển hay không”.
Chị tiếp tục: “Đó là chú bảo thủ. Riêng quan điểm tôi cách thức làm ăn như vậy là không tự do phát triển. Đợi đội trưởng đánh kẻng rồi dân mới cầm cuốc mang cày đi. Đội trưởng chưa đánh kẻng thì ngồi ở nhà chờ. Ngoài làm ruộng ra không biết mở rộng ra làm kinh tế thì làm sao phát triển”.
Tôi kiềm chế. Mình là bộ đội. Họ là dân. Bộ đội với dân như cá với nước, mình phải giữ lời ăn tiếng nói để đi dân nhớ ở dân thương, dù lý do gì thì gây hiềm khích là không nên.
Có chỉ thị các gia đình cán bộ không được ở trong khu vực bệnh viện nữa. Gia đình bác sĩ Lân đi tìm mua nhà ngoài phố. Anh bảo tôi cùng đi xem một ngôi nhà dự tính sẽ mua. Tôi nói, anh tin tưởng, tôn trọng thì nói thế chứ em ở quê vào rừng đánh trận rồi trên rừng về đây biết gì chuyện mua bán.
Chị thuyết phục tôi đi cùng anh. Chị nói có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm.
Thật sao, có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm? Tôi cảm thấy sự khách sáo trong câu chị nói. Tôi đang buồn, được đi ra ngoài thì vui. Đây cũng là dịp được thăm thú Sài Gòn.
Ngôi nhà hai tầng khang trang lộng lẫy. Vừa đặt chân vào tôi thấy choáng ngợp. Đây là phòng khách, đây phòng ngủ, đây phòng bếp, đây phòng vệ sinh. Tôi đi theo anh chỉ dẫn. Hôm ở Tây Nguyên học về chính trị chúng tôi đã được cho biết rằng trong Sài Gòn làm nhà cao tầng vì đất chật hẹp chứ không rộng rãi như ngoài ta. Trong kia hào nhoáng giàu có là vẻ bên ngoài. Vẻ hào nhoáng đó là do đế quốc Mỹ đầu tư. Tôi nghĩ tới lời cảnh tỉnh đó nên nhanh chóng lấy lại sự thăng bằng. Anh nói giá nhà là bao nhiêu cây vàng gì đó rồi hỏi ý kiến tôi ra sao. Tôi trả lời thật bình thản, ngôi nhà này cũng tuyệt vời đấy, có ưu điểm gần bệnh viện anh đi làm.
Mấy hôm nay bác sĩ Lân trầm ngâm, buồn bã. Anh đến giường bệnh tôi ngồi. Hai chúng tôi đi dạo quanh khuôn viên bệnh viện.
- Anh nghe đài thành phố nói liên tục không?
Ngày tôi ra viện chị Sâm đưa một túi bánh kẹo, thuốc lá đến chia tay tôi.
Cảm on gia đình chị. Em chỉ xin một gói kẹo và một gói thuốc mang về làm quà anh em ở đon vị.
Còn lại em xin phép không nhận. Bọn em đời lính không được dùng những khoản này. Em mang về rồi đon vị họ cho rằng em lấy khi đang đánh nhau. Đó chính là chiến lợi phẩm. Mà là chiến lợi phẩm thì thuộc vào mồ hôi xưong máu của đồng đội đã ngã xuống. Quan điểm chúng em dùng những thứ này là có tội với đồng đội. Nếu chị có lòng thì đợi khi ra quân chị cho bao nhiêu em cũng lấy.
Tôi về Tây Nguyên nhận được thư chị. Chị hỏi thăm vết thưong tôi thế nào rồi, đã về Bắc chưa, bọn trẻ và chị Hai ở đây luôn nhắc tới tôi và mong sớm có ngày gặp lại. Cuối thư chị báo tin anh Lân nghe lời tôi đã ra phường đăng ký và hiện đang đi học tập cải tạo.
Tôi chưa kịp viết thư trả lời thì chục ngày sau nhận tiếp được lá thư nữa. Chị cho tôi địa chỉ nơi anh đang học tập cải tạo, mong tôi viết thư động viên anh.
Lá thư tiếp nữa. Tôi nghĩ ra từng lời thật mạnh mẽ động viên chị. Chị viết thư trả lời ngay khi nhận được thư tôi. Tôi cảm nhận được cái gì đó gấp gáp mà chị khó nói ra.
Tôi chỉ là một thằng lính. Tôi chỉ biết tới vậy thôi. Tôi không muốn chị buồn. Tôi không biết nói gì. Tôi ngại ngùng. Chị viết thư lên tôi im lặng.
Lá thư cuối cùng tôi nhận được viết ngày 8 tháng 12 năm 1975.
“Anh đã đi tập trung cải tạo từ ngày 23/6 đến nay gần sáu tháng chưa được về. Chị vừa làm việc vừa nuôi các cháu vừa lo không biết sức khỏe anh ra sao. Chị và chị Hai cứ gầy mòn đi. Tại tính đàn bà hay lo. Vả lại từ trước tới nay sum họp một nhà quen rồi, bây giờ xa cách không gặp được mặt nhau là chị lo nghĩ liên miên mất cả ăn ngủ nên gầy mòn chứ chị được biết chính quyền cách mạng khoan hồng, cho cơ hội cải tạo và lo cho áo cơm đầy đủ chị cũng vững tin.
Gia đình chị có ông chú ruột hiện là Đảng viên - cán bộ giáo dục, cơ sở hoạt động cho cách mạng tại Nam Việt Nam từ 1945 tới nay. Anh đã tận tình giúp đỡ cho gia đình chú trong hai lần bị bắt tù đày Côn Đảo. Chú chị có làm giấy bảo lãnh cho anh và kêu theo đơn xin của chị có thị thực chính quyền địa phương đầy đủ. Không biết đơn có được cứu xét hay không mà hai tháng nay chị chưa được thư anh. Em có thể viết thư thăm anh được không? Nếu được lá thư của em sẽ là nguồn an ủi lớn cho anh đó.
Các cháu đi học cả rồi và học giỏi nữa. Các cháu rất nhớ chú Ngọc và mến yêu chúc chú sớm được sum họp gia đình - cũng như các cháu hằng mong tin ba Lân vậy.
Chị cầu xin ơn trên cho anh, chị, chị Hai và các cháu sẽ được cùng em họp mặt trong một bữa cơm gia đình thân thiết.
Chị Sâm”.
以下是將原文翻譯成中文的內容:
24.
住院的日子疲憊又無聊。幸好認識了蘭醫生一家,偶爾有人來聊聊天,心情也稍微輕鬆一點。但去得多了,我也覺得不好意思。
我住的病房在二樓。每天都拄著拐杖從二樓下到一樓,再從一樓爬回二樓。身體好一點的日子,還會慢慢走到醫院門口,看著街道。
街上熱鬧喧囂,和我孤單迷茫的心情形成強烈對比。這些年我出生入死,哪怕受傷,一條腿長一條腿短,也還是衝上戰場。如今卻虛弱不堪。像現在這種身體狀況,不知道還能做什麼。
住院已經一個月,部隊竟然還不知道。後來我才知道部隊已經把我列為陣亡將士名單。幸好還沒把陣亡通知書寄回老家。4月29日傍晚,當連隊護士和指揮部看到我被送上老百姓的車去急救時,臉色和身體狀況都不好,他們以為我撐不過去了。我回部隊時,軍裝已被人拿走,隨身背了四年多、藏在背包底部的筆記本也丟了。
同病房有個叫樂的北河人。他傷好了,但還沒出院。每天都出去玩,早出晚歸。出去時兩手空空,回來卻總帶著一袋禮物。他說他在南方有不少北方的親戚。認識一個,他們就介紹他認識另一個。他一家家地拜訪。我對禮物不感興趣,但看他進進出出那麼開心,心裡也羨慕。
我說:
-
兄弟,讓我跟你一起去吧。
他說:
-
去幹嘛?
-
在病房悶得慌。
-
嗯,醫院門口有位老鄉。
他帶我過馬路去對面。一家小店,兩人走進去坐下。店主是個慈祥和善的老太太。他介紹我說是病房裡的病友。我們坐了一會兒,他對老太太小聲說了什麼,轉頭跟我說讓我在這兒等,他中午回來。
這家店其實只是屋檐下擺了幾張桌椅,桌上賣些糖果餅乾,還有一些水果,比如芒果、橄欖之類。
老太太寒暄了幾句。
我靜靜地坐著,看著街道。法國人撤走後,美國人得了不少好處。他們繼續投資,把這座城市建得越來越現代化,企圖收買民心。城市是越來越美了,但人心卻分裂了。真是悲哀又可惜。我陷入沉思。
樂哥還沒回來,我坐了很久,開始焦躁。想回去,但又不敢一個人過馬路。腿發抖,車太多,我不敢。
這時,一個女孩從屋裡探出頭朝我揮手:
-
哥哥,進來坐嘛。
我回頭,她對我微笑示好。
老太太說是她外孫女。
-
進來陪我聊聊嘛。
女孩走出來拉著我進屋,不給我猶豫的機會。
她讀高三。
從兩歲起就和外婆一起生活。媽媽帶著弟妹住在峴港。爸爸是共和軍的軍官。
-
哥哥留下來和我還有外婆一起吃午飯吧,我剛煮好飯。
-
我不吃,我在醫院有飯票。你幫我安排一下,送我過馬路回去。
-
我不敢送。樂哥交代過讓你等他,要是我自己送你回去會被罵的。
我只好留下來等樂哥。斷斷續續地回答她的問題。女孩第一次見我就產生了好感,但我實在太累,眼花頭暈,肚子也餓。
下午一點半樂哥才回來。女孩端出飯菜。樂哥叫我趕緊吃飯,好回去。
我小聲問他:「會不會下毒啊?」
他說:「別胡說。老太太是我的老鄉,她把我當成精神上的兒子。我在這裡吃過好幾頓了。」
這是我第一次出院門。女孩這麼溫柔,我告誡自己不能大意。但肚子實在太餓了,我把碗遞給樂哥,讓他幫我盛飯。
第二天我又跟著樂哥到老太太和孫女的店。樂哥走了,我一個人留下。
女孩問我:
-
哥哥你家在哪?怎麼去當兵的?什麼時候回家看媽媽?
我一一回答。詳細、誠懇,直到她不再好奇為止。
-
哥哥喝點水吧?
-
要不要削芒果給你吃?
我搖搖頭。雖然沒那麼戒備了,但身體還是很虛,什麼都不想吃。體重從53公斤瘦到只剩36公斤。手腳青筋暴露,拄著拐杖,胸口纏著繃帶,說話也很慢。
-
哥哥去床上躺一會兒休息吧。
我躺在床上,只覺得自己像個虛弱的孩子。
-
要不要我唸書給你聽?
女孩拿出一本小說開始唸。我迷迷糊糊地躺著,她搬椅子坐近我。她唸著,我不知道內容是什麼,只聽著那輕柔的西貢女聲。
-
我這樣唸你聽得懂嗎?
-
懂。能不能再慢一點?
-
哥哥,樂哥回來了。明天你再出來,我再唸給你聽。
隔天剛好下雨我沒去。晚上樂哥出去玩回來,給我一張紙條:「你有信。」
那是張摺疊成信封樣子的紙,背面寫了一段話:
「親愛的哥哥!這幾天跟你聊天我覺得很開心。今天你沒來,我很想你。希望你早日康復,常常出來聊天,讓我了解北方是什麼樣子,社會主義是什麼樣子。」
我已經不那麼虛弱,能比幾天前多說幾句。女孩坐在我身邊,像個乖學生一樣認真聽。
什麼是社會主義?社會主義是一個由一個黨領導的社會。北方的社會主義和世界上其他社會主義國家基本一樣。現在世界上有一百個社會主義國家,都是大國,比如蘇聯、中國。
那北方的社會主義是怎麼運作的?
社會主義社會有鄉、區、組等不同稱呼的組織,但本質都是協助政府穩定政權。北方的社會主義是從生產隊開始,然後成立生產合作社。一個生產隊可以組成一個合作社,裡面又細分為畜牧合作社、農業合作社、工業合作社。
-
工業合作社做什麼?
-
我老家還沒有工業合作社。但別的地方已經有了。
-
那像我們這種年紀的,將來會做什麼?能做什麼?
如果你想,我也可以幫你翻譯下一段。
以下是原文的中文翻譯:
-
像我們這個年紀,高中畢業後就可以根據能力和選擇報考中專、大專或大學。考上哪裡就去哪裡讀。畢業後就從事自己所學的專業工作。
-
那現在我該做什麼?
-
妳要爭取加入共產主義青年團。
-
共產主義青年團是什麼?
-
共產主義青年團就像這裡叫的共和青年團一樣,是模範的先鋒力量。比如我們這個街坊有100戶人家,就會成立兩個青年分團,每個分團有五十人,就要選出一位最聰明、最機靈、最能幹的人來當分團長。團員的任務是承擔困難的工作,看看街坊需要什麼幫忙就去幫。
-
那我個人需要做什麼、能做什麼?
-
妳要當先鋒,做模範。要自願承擔困難的工作,自願肩負起社會當前所需要的事情。
她不再問了,沉思一會兒,然後說:「我繼續讀書給你聽吧。」
她已經收到了我寫的信,說我的字寫得很小、很難看清。她看著我的字跡說我命苦。她說我的信也不太像文人寫的。
第二天她約我一起去街上散步。
「跟我走這邊一點。」她主動挽起我的手。
在Gò Vấp三岔口有一家照相館,她拉我進去看。她指著牆上掛著的一對對情侶照片。
「這張好看嗎?」
「好看。」
又指著另一張:「這張好看嗎?」
「好看。」
再問一次:「好看嗎?」
「好看。」
我們離開了照相館。
「陪我去我朋友家借本書。」
她又挽起我的手。她說現在只有這位女生朋友最親。
那是一棟兩層樓的房子,滿院子都是綠樹。
「你在這裡等我一下。」
她走上外邊的樓梯,然後從視線中消失。我不知道她去了哪裡。
我坐在走廊的椅子上等候。這應該是間豪華客廳的前廳。客廳的門關著,靜悄悄的。
天空突然下起了傾盆大雨。接著,外面巷子傳來一陣近距離的槍聲。作為一名士兵的本能讓我全身一震。我身上沒帶武器,身體虛弱,此刻若有人衝出來掐我脖子,我也沒辦法反抗。我太不小心了,跟著這女孩來到這裡太掉以輕心。這下恐怕要死得不明不白了。我覺得自己實在太傻了。
她淋著雨跑回來,頭髮濕透。
她拉我走到屋簷底下,緊緊地抱住我。
「你怕嗎?」
「我怕。」
明天我要出院了,部隊已經知道我還活著。
我回到部隊,繼續接受任務,前往西原與Fulro作戰。
@@被壓制民族鬥爭統一戰線(越南語:Mặt-trận Thống-nhất Đấu-tranh của các Sắc-tộc Bị Áp-bức、法語:Front Uni de Lutte des Races Opprimées,簡稱FULRO),是越南歷史上曾經存在的一個少數民族組織。這個組織最初成立的目標是實現高地民族的自治,只是一個政治民族主義運動。1969年以後演變成眾多互不隸屬的反政府遊擊隊,反對一切形式的越南人統治。
外婆說:「孩子你走了記得回來看看,彼此熟悉了,如今分離真令人傷感。」
她問我什麼時候再回來。
我說我不知道。
我還會在西貢待一個月才前往西原。那地點距離醫院十五公里。我想去看她,卻沒辦法。因為我們每週只有星期天能外出一小時。但這不是主要原因,最主要的是我身上一毛錢也沒有。沒有錢,我怎麼敢去探望一個女孩子?
我到了西原,想寫信給她,但不知道怎麼寫。我的字不好看,也不會表達。我感到很羞愧。
1975年12月底,我寫信拜託三姐Sâm幫我打聽她的消息。三姐回信告訴我,這女孩已經志願去西寧教書了。她任教的地方是與柬埔寨接壤的一個縣。
聽到消息,我內心揪痛。每天都祈禱她平安。想起我們曾經的對話,心裡久久不能平靜。
1976年底,我獲准返鄉。
我離開家上戰場已經五年。
家裡荒涼,屋子空蕩破敗。妹妹去北方學手藝,只剩下年老體弱的母親獨自生活。看到這樣的家,我怎能再拋下母親離開?我去部隊辦理退伍手續,回到家砍柴鋤草、修整庭院,與母親相依為命、勉強度日。
這些信是我現在才讀的。她寄到我母親在鄉下的住址。
夜深,母親已經安然入睡,她的兒子平安回來。我一封封打開信,淚水潸然而下。我年輕的歲月,是誰奪走了我的青春?
西貢 1975年7月29日
你走已經快兩週了,我還沒有收到你的任何信。
我寫信給你還得託你母親的地址,真的讓我很為難。你覺得我這樣的處境如何?
你是開心還是難過?不管怎樣,請再來看看我吧。
我在這裡很寂寞。朋友只有一個閨密。家人常被人詆毀。經濟拮据。外婆越來越老邁。
我鬱悶得甚至想出家,以擺脫一切煩惱。我相信佛會在我苦難時救我。
當我說想出家的時候,你曾勸我為家庭、為社會不要放棄。拋下人世去出家不是好事。我非常珍惜你的話。
西貢 1975年8月20日
為什麼爸媽要丟下我?是因為太窮無法養我?還是別的原因?我有父母,卻感受不到他們的愛。
這是我寫給你的第二封信。前一封你收到了嗎?為什麼沒回?我好擔心你,請快回信給我。
你鄉下有年老的母親,真幸福,有媽媽疼你。她在你離家當兵時為你哭泣。現在你已回到媽媽身邊,回到貧困但充滿親情的家鄉。
我這城裡女孩不懂農事。你的家庭會接受我這樣的人嗎?
西貢 1975年10月15日
這是我寫給你的第六封信了。
你已經了解我的家庭情況。那些閒言閒語我不怕。我沒做錯事,怕什麼?
認識我,你會擔心影響自己的名聲嗎?朋友會怎麼看你?你又怎麼回答他們?
為什麼我們會認識?是因為戰爭吧?戰爭帶給你我的家鄉無盡傷痛。我希望將來南北不再有血流成河的局面。
我心痛不已。
我知道你是個好人,一個有道德的人,不會拿別人的痛苦當快樂。
家鄉若能平靜,你也會少些艱難。你母親不再與兒子分離。你鄉親的苦日子也會結束。
你曾勸我:未來屬於年輕人。但我現在感到生命無趣,只想脫離社會,遠離殘酷的人世。
西貢 1975年10月20日
我有件好消息要告訴你,我今天早上加入了青年團。我想為社會分擔一點責任。
這次收信後,請務必馬上回信給我。
一位孕婦在河邊爬行。她肚子很大。「那位姊姊怎麼了?」她迅速行動,從堤岸滾落到河灘。
他跑回家拿出背包裡的防水布鋪開。她在布上躺開。
他砍了根竹子做成擔架,找人一起把母子送去醫療站。他把沾滿血與羊水的布帶到河邊清洗。為什麼偏偏在他回來的早晨發生這種事?
沒人知道這女人從哪來。兩天後她離開了,孩子留下。一名士兵收養了這孩子。在Ngàn Sâu河邊,孩子與村民一起長大。
1982年,他回到西貢。他到Gò Vấp第五區尋找那間舊房。舊房還在,沒變化。外婆去世了。她去西寧教了一年書,因邊境戰爭被迫回來。到1979年,有人擔保她去了法國。
現在與他談話的是她的母親。她父親仍在西寧的改造營。
他詢問能否聯絡上她。母親說:「既然已經不再來往,就算了吧。這裡的風俗就是這樣。」
他留在西貢一段時間想謀生,但並不容易,只能回去安心當農夫。Ngàn Sâu河邊,每年都有洪水來襲。
他什麼都不記得了。不再記得這些信,這張臉、這雙眼。戰場、屍體、第七公路,一切都模糊了。
24.
Những ngày nằm viện mệt mỏi, chán chường. Nhờ quen được gia đình bác sĩ Lân thỉnh thoảng có người trò chuyện cũng khuây khỏa chút nào. Nhưng đến nhiều tôi cũng ngại.
Phòng bệnh tôi ở tầng hai. Hàng ngày cứ chống nạng đi từ tầng hai xuống tầng một. Rồi từ tầng một leo lên tầng hai. Hôm nào khỏe hơn thì mon men ra ngoài cổng viện đứng nhìn đường phố.
Đường phố ồn ào nhộn nhịp đối lập với tâm trạng bơ vơ lạc lõng. Bao nhiêu năm xông pha trận mạc bị thương chân thấp chân cao vẫn lao vào trận địa mà giờ hom hem yếu ớt. Sức khỏe thế này rồi không biết còn làm được gì nữa.
Nằm viện một tháng rồi đơn vị không biết. Sau này tôi mới biết đơn vị đã ghi tôi vào danh sách liệt sĩ. May là họ chưa gửi giấy báo tử về quê. Cuối ngày 29 tháng 4 y tá đại đội và ban chỉ huy đại đội nhìn sắc mặt và thể trạng tôi khi đưa lên xe người dân đi cấp cứu họ nghĩ rằng tôi không thể qua khỏi. Khi tôi về đơn vị thì quân trang tôi người ta mang đi. Cuốn sổ giấu trong đáy ba lô mang theo bên mình hơn bốn năm qua cũng bị lấy mất.
Cùng phòng bệnh tôi có anh Lạc người Hà Bắc. Anh bị thương đã bình phục nhưng chưa ra viện. Ngày nào anh cũng đi chơi. Sáng đi tối về. Ra đi tay không nhưng lần nào về cũng mang theo một túi quà. Anh nói bà con ngoài Bắc của anh trong này nhiều. Quen người này họ lại giới thiệu anh cho người khác. Anh đến chơi từng nhà. Tôi chẳng ham quà cáp gì nhưng nhìn anh đi đi về về vui vẻ tôi thèm lắm.
- Anh cho em đi theo với.
- Ờ, ngoài cổng viện tao có bà đồng hương.
Anh dẫn tôi sang bên kia đường. Hai anh em vào một hàng quán ngồi. Chủ quán là bà cụ nhìn hiền hậu, gần gũi. Anh giới thiệu tôi là bạn điều trị cùng phòng. Ngồi chơi độ chục phút thấy anh nói nhỏ câu gì đó với bà chủ quán và quay sang bảo tôi cứ ở đây chơi chờ anh trưa về.
Gọi là quán nhưng chỉ là bàn ghế đặt ở bên hiên ngôi nhà nhỏ. Trên bàn bày bán một ít kẹo bánh và trái cây xoài, cóc.
Bà cụ hỏi chuyện tôi vài ba câu lấy lệ.
Tôi ngồi lặng lẽ. Nhìn ra đường phố. Thằng Pháp rút về để lại nhiều lợi thế cho thằng Mỹ. Thằng Mỹ tiếp tục đầu tư tô thắm cho thành phố này ngày thêm hiện đại để mua chuộc người dân đi theo. Thành phố đẹp nhưng lòng người bị chia cắt. Thật là buồn và đáng tiếc biết bao. Tôi miên man nghĩ.
Anh Lạc vẫn chưa về. Tôi ngồi lâu sốt ruột lắm rồi. Nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng có gì mới mẻ hơn. Tôi muốn về nhưng một mình không dám sang đường. Bước chân tôi đang run, đường thì đông. Tôi không dám.
Một cô gái ngồi trong nhà, ghé mắt qua cửa sổ vẫy tay tôi. Tôi quay lại. Cô nhìn tôi cười làm quen.
Bà chủ quán giới thiệu đó là cháu ngoại bà.
Cô gái bước ra kéo tay tôi đi vào không để cho tôi do dự.
Cô gái học sắp xong lớp 12.
Em sống với bà ngoại từ khi hai tuổi. Mẹ ở Đà Nằng với các em. Ba là sĩ quan Cộng hòa.
Tôi đành phải nán lại chờ anh Lạc. Rời rạc trả lời từng câu hỏi của em. Cô gái ngay lần đầu gặp tôi đã cảm mến nhưng vì lúc này tôi mệt quá. Tôi đói hoa mắt.
Đến một giờ rưỡi chiều anh Lạc mới về. Em dọn cơm ra mâm. Anh Lạc bảo tôi ngồi xuống ăn nhanh còn về.
“Có thuốc độc không?”, tôi ghé tai anh Lạc hỏi thầm. “Tầm bậy. Bà già đồng hương. Bà nhận tao là con tinh thần. Tao ăn đây nhiều bữa rồi”.
Lần đầu tiên đi ra ngoài bệnh viện. Cô gái xa lạ mềm mỏng thế kia. Tôi dặn mình không được chủ quan. Nhưng đói quá rồi, tôi đưa bát cho anh Lạc xới cơm.
Hôm sau tôi lại theo anh Lạc ra quán bà cháu ngồi. Anh Lạc đi, mình tôi ở lại.
Anh quê ở đâu? Đi lính thế nào? Bao giờ anh về thăm mẹ?
Cô gái hỏi. Tôi trả lời. Trả lời kỹ càng, chân thật cho đến khi nào cô hết thắc mắc.
- Anh uống nước nhé?
- Em gọt xoài cho anh ăn nhé?
Tôi lắc đầu. Tôi bớt đề phòng rồi nhưng người vẫn đang mệt, không muốn ăn uống gì. Từ 53 kg tôi lúc này còn 36 kg. Chân tay nổi gân xanh. Đi chống nạng. Ngực quấn băng. Diễn đạt từng câu chậm chạp.
- Anh vào giường nằm nghỉ một chút đi.
Tôi vào giường nằm. Thấy mình yếu đuối như đứa trẻ.
- Em đọc sách cho anh nghe nhé.
Cô gái mang sách ra đọc. Một cuốn tiểu thuyết. Tôi nằm mơ màng. Em kéo ghế ngồi sát bên. Tôi nghe. Chẳng biết em đang đọc gì. Tiếng cô gái Sài Gòn nhỏ nhẹ êm ru.
- Em đọc thế này anh có hiểu không?
Ngày hôm sau trời mưa tôi không ra. Buổi tối anh Lạc đi chơi về đưa cho tôi một mảnh giấy. Mày có thư này.
Mảnh giấy viết một mặt, mặt kia gấp lại thay phong bì thư.
“Anh thân! Mấy ngày tâm sự với anh cảm thấy rất vui. Hôm nay anh không ra cảm thấy nhớ. Em mong anh chóng lành bệnh và thường xuyên ra tâm sự để em hiểu được miền Bắc là thế nào và xã hội chủ nghĩa là thế nào ”.
Tôi đã đỡ mệt, có thể nói chuyện được nhiều hơn mấy hôm trước. Em ngồi bên tôi lắng nghe như cô học trò ngoan.
Thế nào là xã hội chủ nghĩa? Xã hội chủ nghĩa là một xã hội do một Đảng lãnh đạo. Xã hội chủ nghĩa miền Bắc giống như xã hội chủ nghĩa thế giới nói chung. Hiện nay trên thế giới có 100 nước xã hội chủ nghĩa. Đều là những nước lớn, ví dụ như Liên Xô, Trung Quốc.
Xã hội chủ nghĩa miền Bắc cung cách làm ăn như thế nào?
Xã hội chủ nghĩa có xã, phường, tổ... với những tên gọi khác nhau nhưng đều là những tổ chức giúp cho chính quyền đứng vững. Xã hội chủ nghĩa ngoài miền Bắc bắt đầu từ đội sản xuất, sau đó là hợp tác xã sản xuất. Những đội sản xuất tập hợp lại thành một hợp tác xã. Trong hợp tác xã có hợp tác xã chăn nuôi, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp.
- Hợp tác xã công nghiệp làm gì?
- Hợp tác xã công nghiệp ở địa phương anh chưa có. Địa phương anh chưa có nhưng nơi khác có rồi.
Em không hỏi nữa. Trầm ngâm một lúc rồi bảo: Em đọc sách cho anh nghe tiếp nhé.
Em đã nhận một lá thư tôi viết. Em nói chữ tôi viết hoi nhỏ, khó đọc. Nhìn nét chữ anh em thấy số vất vả. Thư anh viết cũng không được văn chưong cho lắm.
Hôm sau em rủ tôi đi dạo phố.
Đi với em đằng này một chút. Em chủ động khoác tay tôi.
Ở ngã ba Gò Vấp có một cửa hàng chụp ảnh. Em kéo tôi vào xem. Em chỉ từng bức ảnh chụp các đôi lứa treo trên tường.
Chỉ vào bức ảnh khác.
Chúng tôi ra khỏi cửa hàng.
Em lại khoác tay tôi. Em nói mình giờ chỉ còn người bạn gái thân này.
Ngôi nhà hai tầng có giàn cây xanh um tùm.
- Anh ngồi đây chờ em xíu.
Em leo lên cầu thang ngoài rồi mất hút phía sau. Tôi không biết em đi đâu.
Tôi ngồi ở ghế chờ ngoài hành lang. Có lẽ đây là sảnh một phòng khách sang trọng. Phòng khách đóng cửa. Im vắng.
Trời đột ngột đổ mưa rào. Tiếp theo là những tiếng súng nổ rất gần. Tiếng súng như phát ra từ con ngõ bên ngoài. Quán tính người lính khiến tôi rùng mình. Tôi không có súng trong người, sức đang yếu, giờ ai nhảy ra bóp cổ mình cũng không chống cự được. Tôi bất cẩn quá, mất cảnh giác quá khi đi theo cô gái này tới đây. Kiểu này lại chết vô danh rồi. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn.
Em chạy vụt về giữa mưa. Tóc ướt đẫm.
Em kéo tôi lại cuối hiên nhà rồi ôm chặt tôi.
Ngày mai tôi ra viện. Đon vị đã biết tôi còn sống.
T ôi trở về đơn vị tiếp tục nhận nhiệm vụ lên T ây Nguyên chiến đấu với Fulro.
Bà ngoại nói, cháu đi rồi cố quay trở lại chơi. Quen nhau rồi giờ xa cách buồn.
Em hỏi khi nào anh trở lại.
Anh không biết.
Tôi còn ở Sài Gòn một tháng nữa mới lên Tây Nguyên. Ở cách bệnh viện mười lăm cây số. Tôi muốn tới thăm em nhưng không đi được. Mỗi tuần chúng tôi chỉ được ra ngoài một tiếng đồng hồ vào chủ nhật. Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do là tôi không có xu nào trong người. Không có tiền làm sao dám đi thăm bạn gái.
Tôi lên Tây Nguyên. Muốn viết thư về cho em nhưng không biết viết thế nào. Chữ tôi xấu. Không biết cách diễn đạt. Tôi ngại.
Cuối tháng 12 năm 1975 tôi viết thư nhắn qua chị Sâm nhờ chị hỏi tin về em. Chị Sâm viết thư lên báo tin cô gái ấy đã đi dạy học tình nguyện ở Tây Ninh. Nơi cô dạy là một huyện giáp với Campuchia.
Nhận được tin tôi xót xa. Mỗi ngày tôi lại cầu mong em bình yên. Nhớ lại buổi trò chuyện hôm nào lòng tôi day dứt.
Cuối năm 1976 tôi được phép về quê.
Tôi rời nhà đi chiến trường đã năm năm.
Vườn hoang, ngôi nhà trống không ọp ẹp. Em gái đi ra Bắc học nghề. Chỉ còn mẹ già yếu ở một mình. Cảnh nhà thế này sao tôi bỏ mẹ mà đi được. Tôi vào đon vị làm thủ tục ra quân. Về nhà chặt tranh tre cuốc xới vườn dựng lại nhà cùng mẹ kiếm bữa ăn qua ngày.
Những lá thư của em giờ tôi mới đọc. Em gửi thư về cho tôi qua địa chỉ của mẹ ở quê.
Đêm khuya mẹ đã ngủ giấc bình yên khi con trai nguyên vẹn trở về. Tôi mở từng lá thư. Nước mắt tôi chảy tràn. Tuổi trẻ của tôi đâu ai đã cướp đi tuổi trẻ của tôi.
Sài Gòn ngày 29.7.1975
Anh đi ngót hai tuần rồi mà em không nhận được một lá thư.
Em thiệt là khổ tâm khi gửi thư cho anh mà phải nhờ qua địa chỉ của mẹ anh. Thiệt là khó khăn cho em quá. Ở hoàn cảnh của em thì anh nghĩ làm sao?
Anh đang buồn hay đang vui? Buồn hay vui thì cũng quay lại thăm em anh nhé.
Ở đây em buồn nhiều. Bạn bè chỉ có một đứa bạn gái thân. Gia đình thì bị xuyên tạc. Tiền bạc eo hẹp. Bà thì ngày càng già yếu.
Em chán đến độ muốn đi tu để dứt hết mọi khổ tâm. Em tin tưởng phật. Phật cứu rỗi ta lúc khổ đau.
Khi em nói chuyện muốn đi tu anh đã khuyên em nên vì gia đình, vì xã hội mà đừng bỏ hết. Gác hết sự đời mà đi tu thì không tốt. Em quý trọng lời anh vô cùng.
Sài Gòn ngày 20.8.1975
Tại sao ba mẹ bỏ rơi em? Vì nghèo quá không nuôi được em hay vì lý do gì khác? Em có ba mẹ mà không cảm nhận được tình thương yêu của ba mẹ dành cho mình.
Lá thư thứ hai em viết cho anh. Lá thư trước anh đã nhận được chưa mà sao không hồi âm cho em. Em lo lắng quá, không biết anh thế nào. Trả lời gấp cho em anh nhé.
Ở quê anh có mẹ già. Anh thật hạnh phúc khi có mẹ yêu thương. Mẹ đã khóc thương anh khi anh ở xa làm nhiệm vụ người lính. Giờ anh đã về với mẹ, với làng quê nghèo khổ nhưng nhiều tình yêu thương.
Em là con gái thị thành không biết làm ruộng. Gia đình anh có chấp nhận một người như em không?
Sài Gòn ngày 15.10.1975
Đây là lá thư thứ sáu em viết cho anh rồi.
Anh đã hiểu hoàn cảnh gia đình em. Những lời chê cười, đàm tiếu của thiên hạ không làm em sợ. Em có làm gì xấu đâu mà phải sợ.
Quen một người như em anh có sợ bị ảnh hưởng danh dự không? Bạn bè sẽ nghĩ gì và anh sẽ trả lời với họ ra sao?
Tại sao em và anh quen nhau? Có phải do chiến tranh mà quen nhau không? Chiến tranh đã gây tang tóc cho quê hương anh và quê hương em miền Nam. Giữa hai miền Nam Bắc sau này em mong đừng bao giờ còn cảnh máu thịt tuôn rơi.
Lòng em xót xa.
Em biết anh là người tốt. Con người đạo đức không lấy cảnh đau của người khác mà làm vui cho mình.
Quê hương thanh bình anh sẽ bớt cực khổ. Mẹ anh sẽ không phải sống cảnh xa con trai nữa. Những người làng quê anh không còn đau khổ.
Anh khuyên em tương lai là ở tuổi trẻ nhưng bây giờ em thấy cuộc đời mình vô vị. Em muốn dứt xã hội. Em muốn tránh xa loài người độc ác.
Sài Gòn ngày 20.10.1975
Em muốn báo cho anh một tin vui, là em vừa nhập đoàn thanh nữ sáng nay. Em muốn gánh vác một phần nào công việc xã hội.
Nhận được thư lần này anh hãy trả lời gấp cho em nhé.
*
Người đàn bà trườn bên bờ sông. Người đàn bà chửa với cái bụng kềnh càng. Chị kia sao vậy. Người đàn bà hành động nhanh horn. Chị muốn chết sao. Chị đã lăn từ trên bờ xuống bãi.
Anh chạy vào nhà mở ba lô lấy tăng võng. Chị đã sổ ra, trên tăng võng vừa trải.
Anh chặt cây tre làm đòn cáng. Tìm thêm người khiêng mẹ con về trạm xá. Anh mang tăng võng ướt đẫm màu máu và nước ối ra sông. Tại sao là chuyện như thế này xảy ra trong buổi sáng anh trở về?
Người đàn bà từ noi nào đến không ai hay. Hai ngày sau chị bỏ đi. Đứa con ở lại. Một người lính nhận làm cha. Bên sông Ngàn Sâu, con lớn lên cùng dân làng.
*
Năm 1982 chú vào Sài Gòn. Chú đến khóm 5 Gò Vấp tìm ngôi nhà cũ. Nhà cũ vẫn ở đó, chưa thay đổi gì. Bà ngoại đã mất. Cô ấy đi dạy ở Tây Ninh một năm phải về vì chiến tranh biên giới. Đến năm 1979 có người bảo lãnh cho sang Pháp.
Tiếp chuyện chú lúc này là người mẹ. Ba của cô vẫn đang ở trại cải tạo Tây Ninh. Chú xin hỏi có cách gì để liên lạc với cô ấy. Người mẹ nói, không quen nhau nữa thì thôi, phong tục tâp quán trong này là vậy. Chú ở lại Sài Gòn thêm thời gian nữa tính kế mưu sinh nhưng không dễ dàng, trở về yên phận làm người nông dân. Nhà bên sông Ngàn Sâu mỗi năm mấy đợt lũ tràn về.
Chú không còn nhớ gì nữa. Không còn nhớ được gì nữa. Những lá thư này. Khuôn mặt ánh mắt này. Chiến trường. Xác chết. Đường số 7.
555

沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。