深溪河畔的人11-24

11-24不要寫出我的名字
不要提我的名字
Đừng Kể Tên Tôi 
- Phan Thúy Hà



**11. 生涯中的第一場戰鬥**

1971年2月2日,我第一次上戰場。

凌晨五點,我們連隊奉命進入601號據點作戰位置。

四輛坦克(稱為一個坦克連)出發,行進途中其中一輛陷入敵方的炸彈坑中,距離陣地還有大約一公里。

敵軍昨天剛空降,今天我們即刻反擊。他們還來不及設置防禦圍欄。

三輛坦克進入戰場。敵軍在據點中使用重火力武器、步槍及遠程火力四處射擊。數十架直升機、數十架OV-10與AD-6飛機在空中轟鳴,向我們進攻方向傾瀉火箭彈。

我軍觀察站回報,敵軍駐守一個步兵營。

這一帶的地形我完全不熟悉。我被編入第320師、第64團、第9營、第11連的第10火力班,也就是60迫擊砲班。

出發前,我被分配攜帶一個重15公斤的迫擊砲底座、11枚砲彈和一把AK步槍,另有100發子彈。

部隊展開隊形,聽從連長指令開火。我們小隊有兩門迫擊砲,我幫2號砲手裝填了五發砲彈,手中的步槍還沒來得及開火。

上午十點,敵軍開始收縮防線,我軍攻佔了橋頭堡與第一線防禦陣地。

此時部隊暫停推進。原因是副營長阮文誠(Nguyễn Văn Tranh)被砲彈碎片削斷左臂,從手肘處整段割裂,只剩下一小片皮膚與肌腱相連。通信兵正為他包紮。他命令通訊兵邱維子(Kiều Duy Tý)立刻將垂掛的斷臂砍斷,好方便包紮。眾人彼此對望,猶豫不決。

「這手已經沒用了,留著也沒意義。」

邱維子拔出軍刀,執行長官的命令。

戰鬥繼續。

一顆AR15子彈穿透了第一連副連長七哥的胸膛。戰場宛如颶風肆虐,敵軍機槍不斷掃射,箭竹林倒伏炸裂。我們是火力支援班,未經指令不得隨便開火。

我被派與一名營級運輸兵抬七哥撤離。他半昏迷地躺在擔架上。

我們一邊摸索前進,一邊詢問路人怎麼穿過溪流後撤。

又餓又累,我們停下來休息。我的飯盒落在戰場上,只好與運輸兵共食他的一團飯糰。

吃完後我一看七哥,以為他已經死了,驚慌不已。運輸兵有經驗,他把手放到七哥鼻下,再摸胸口,感覺心臟還在跳。我們欣喜若狂,加快腳步奔向後方醫療點。

下午五點,我們順利將傷兵交接完成。

飢腸轆轆,我們去找炊事員要飯。他只說:「有水,沒飯。」

我們兩人摸黑往回走,來到一條大溪邊,聽到附近部隊在分飯。我衝過去抓住炊事員的鍋蓋懇求:「我們剛把傷兵送下來,回部隊太遠了,請分我們一小鏟飯吧。」他手指一指:「去掩體裡拿鋁飯盒來裝。」

飯後天已全黑,疲倦襲來。我們請求留宿,對方也沒多說什麼,我們就靠著溪邊樹葉鋪地睡到天亮。

晚上八點,我們終於摸回連隊。昨天的戰鬥,我們班犧牲兩人,受傷一人。

副營長阮文誠殉職。

他在包紮後仍堅持指揮部隊直到下午兩點,部隊奪下陣地,暫時取得勝利。但他再次中彈,AR13子彈穿透大腿,失血過多。

整個營以主動姿態出戰,一天內傷亡過半,僅剩150人。火力班原本9人,還剩6人。

我們在溪邊休整一天,重整隊伍。

休息未完,半夜便接到命令,必須立刻返回昨天的陣地,替換第10連繼續堅守。連隊連夜出發。


11.

Trận chiến đầu tiên của đời lính.

Ngày 2 tháng 2 năm 1971.

Đại đội lên đường vào vị trí chiến đấu tại căn cứ điểm 601.

Năm giờ sáng.

Bốn chiếc xe tăng. Gọi là một đại đội xe. Đoàn xe xuất kích được một chặng đường, cách trận địa chừng một cây số thì một chiếc bị sa lầy, rơi vào hố bom địch.

Địch đổ bộ vào hôm qua. Hôm nay ta đánh. Chúng chưa kịp làm hàng rào.

Ba chiếc xe tăng tiến vào. Địch trong đồn dùng súng hỏa lực, súng bộ binh, súng hỏa lực tầm xa bắn xung quanh trận địa. Hàng chục chiếc trực thăng, hàng chục chiếc 0V10. AD6 bay rầm trời trút đạn rocket xuống hướng quân ta đang tiến.

Đài quan sát của ta báo về lực lượng địch trên đồn gồm một tiểu đoàn bộ binh.

Địa hình này tôi hoàn toàn xa lạ. Tôi được bổ sung vào tiểu đội cối 60, tức tiểu đội 10 hỏa lực của đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320.

Trước khi đi tôi được bố trí mang 1 cái đế cối nặng 15 kg, 11 quả đạn, 1 khẩu AK có 100 viên đạn.

Đơn vị dàn quân, nghe lệnh của đại đội nổ súng. Tiểu đội có hai khẩu cối. Tôi đã tiếp tay cho xạ thủ số 2 được năm quả. Súng bộ binh chưa bắn được viên nào.

Mười giờ. Địch co cụm lại. Ta chiếm được lô cốt đầu cầu và tuyến 1.

Quân ta tạm dừng lại. Lý do là ông Nguyễn Văn Tranh tiểu đoàn phó đã bị một mảnh pháo cắt đôi ống tay trái từ khúc tay trở ra. Cánh tay dính vào cơ thể bằng một mảnh da và cụm gân. Tổ liên lạc đang băng bó. Ông lệnh cho liên lạc tiểu đoàn là anh Kiều Duy Tý chặt đứt phựt ngay phần lùng lằng băng bó cho tiện. Mọi người nhìn nhau ngập ngừng.

“Không làm được gì nữa đâu mà để lại”.

Anh Kiều Duy Tý rút dao găm ra thực hiện mệnh lệnh thủ trưởng.

Trận đánh tiếp tục.

Viên AR15 xuyên qua ngực ông Bảy đại đội phó đại đội 1. Trận địa như đang trong cơn giông bão. Tiếng đạn bộ binh trong đồn bắn ra không ngót. Rừng nứa gãy đổ toang toác. Tiểu đội tôi là tiểu đội hỏa lực, không được bắn tùy tiện.

Tôi được phân công cùng với đồng chí vận tải tiểu đoàn khiêng ông Bảy ra phía sau. Ông Bảy nằm trên cáng thương lúc tỉnh lúc mê.

Chúng tôi vừa đi vừa dò đường. Ra phía sau trận đánh có nhiều người đi lại. Họ chỉ chúng tôi cách qua khe qua suối.

Vừa mệt vừa đói chúng tôi dừng chân nghỉ. Cơm của tôi bỏ lại trận địa. Tôi ăn chung nắm cơm của anh vận tải.

Ăn cơm xong nhìn ông Bảy tưởng như chết rồi. Tôi hơi hoảng. Anh vận tải có kinh nghiệm lấy tay đầy nhẹ vào lỗ mũi ông và sờ vào ngực thấy tim vẫn còn đập. Mừng quá vừa cáng vừa chạy để kịp bàn giao cho tuyến ngoài.

Năm giờ chiều chúng tôi xong nhiệm vụ bàn giao thương binh.

Đói quá, chúng tôi đi tìm anh nuôi xin cơm. Anh nuôi trả lời, ở đây chỉ có nước chứ cơm thì không.

Hai anh em tìm về đơn vị. Đi đến bên con suối lớn nghe tiếng một đơn vị gần đó đang chia cơm. Tôi chạy vào cầm ngay cái vung giữ tay anh nuôi lại cầu xin. Chúng tôi đưa thương binh ra phía sau, giờ về đơn vị thì xa quá, xin anh bớt cho một xẻng cơm. Theo tay anh nuôi chỉ tôi chạy vào hầm lấy ăng gô ra đựng phần cơm mình.

Ăn xong thì trời tối. Cơn buồn ngủ kéo đến. Chúng tôi xin được ngủ lại. Không cần họ trả lời, hai anh em bẻ ôm lá rải bên bờ suối ngủ một mạch tới sáng.

Tám giờ tối chúng tôi lần tìm về được tới đơn vị. Sau trận hôm qua tiểu đội tôi hai người hy sinh, một người bị thương.

Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Tranh đã hy sinh.

Sau khi được băng bó ông Tranh tiếp tục chỉ huy đơn vị đến hai giờ chiều. Đơn vị chiếm lĩnh trận địa. Tạm thời thắng lợi. Ông bị trúng đạn thêm lần nữa. Một viên đạn AR13 bắn xuyên đùi. Máu ra quá nhiều.

Tiểu đoàn ra trận ở thế chủ động, qua một ngày con số hy sinh và bị thương hơn một nửa. Số quân còn lại 150 người. Tiểu đội hỏa lực 9 người còn lại 6.

Chúng tôi nghỉ lại bên bờ suối một ngày để cùng cố lực lượng.

Chưa kịp nghỉ ngơi thì nửa đêm có lệnh phải trở lại vị trí hôm qua để thay cho đại đội 10 đang năm giữ trận địa. Đại đội lên đường trong đêm.

**12. A Lầy村之戰**

1971年4月29日晚上七點,我們接到命令,前往東村會合全營,支援友軍作戰。

部隊列隊完畢後,傳達口令,以防我軍與敵軍遭遇時無法識別彼此。

連長才走遍全隊,反覆講解口令:「問才,答索;問索,答才。」反之亦然。

才是我們的連長,索是我們的政治指導員。

第二組暗號是:用槍托拍三下,對方要拍兩下回應;拍兩下,則對方拍三下回應。

晚上七點,群山一片黑暗。偵察兵打頭陣。我們聽著彼此細微的腳步聲,貼身前行,避免迷路。

沒有聽見飛機聲。只有前方火光閃爍,以及土石與樹木轟然倒塌的聲音。

B52轟炸正好劃過我們隊形。

我被炸彈氣浪掀飛到樹梢,翻滾落地。鋼盔還在頭上。

我爬起來,感覺喘不過氣來,臉上濕答答的。我不停地用手擦拭,原以為是汗,卻發現是從鼻子與嘴裡流出的鮮血。

我回到掩體,其實我們才剛離開幾十步。

「你怎麼還躺著?快去把弟兄們撿回來!」一位前輩怒斥。

我回答:「我頭暈耳鳴,搞不清楚……」

「那你就繼續躺那吧。」

他在黑暗中沒看見我滿臉是血。

我又躺了一會兒,還是硬撐著起來。耳鳴不止,腦袋仍然昏沉。我加入大家的行列,一起去撿回那些我連名字都不知道的戰友。

我們整夜在黑暗中搜尋。天亮後,眼前只見四團混合著血與骨的肉塊。我們繼續撿。得撿乾淨,一個都不能落下。

抬頭一看,樹梢上是腸子;低頭看溪溝裡是腿;山坡另一邊是頭顱。我把這些屍塊一一收集,放進那堆血肉之中。

「連長才呢?」

只見一具軀體癱倒在一間高腳屋的柱腳下。一塊炸彈碎片直貫肛門而入。我翻開臉一看,連長早已僵硬。

我找到了自己的背包,飛出了數十公尺,卡在一棵被炸斷的樹旁。我想像著昨晚自己被氣浪拋上天,和那棵樹同時墜地。我踩到了一顆埋地炸彈。如果那不是掘地炸彈,我的身體現在恐怕也成了那堆被分解的肉塊之一。

我們火力小隊的位置在連隊隊形中間。一人被炸斷頭,一人炸斷雙腿。

各部隊陸續交出死亡名單:58人陣亡,60人受傷。

58份血肉與骨頭,分得大致均勻。沒有人要求對得上,沒有人要求完整。不能,也不可能。

我們鋪上帆布與塑膠布,把肉塊、骨頭,一一收納。

58座墳墓。

第11連指揮部,全軍覆沒。

我當時17歲,在筆記本上寫下:這是第10場戰鬥。

還有多少場仗,在前頭等著我?


12.

Bản A Lầy Nhầy.

Bảy giờ đêm, ngày 29 tháng 4 năm 1971. Chúng tôi được lệnh lên đường đến bản Đông tập trung cho toàn bộ tiểu đoàn để chi viện cho đơn vị bạn.

Dàn xong đội hình chúng tôi nghe phổ biến mật khẩu đề phòng ta và địch chạm mặt nhau mà không phân biệt được.

Đại đội trưởng Tài đi từ đầu đoàn đến cuối đoàn: Hỏi Tài thì đáp Sộp. Hỏi Sộp đáp Tài. Và ngược lại.

Ông Tài là đại đội trưởng. Ông Sộp là chính trị viên trưởng đại đội.

Mật khẩu thứ hai: Vỗ vào báng súng ba cái thì đáp lại hai cái. Vỗ vào báng súng hai cái thì đáp lại ba cái.

Bảy giờ đêm rừng núi mịt mù. Trinh sát dẫn đầu. Anh em nghe tiếng động nhẹ bám sát vào nhau đi theo hàng dọc khỏi bị lạc.

Không nghe tiếng máy bay. Chỉ có ánh lửa chớp nhoằng nhoằng trước mặt. Và tiếng ầm ầm của đất đá cây cối.

B52 rải cắt ngang đội hình.

Tôi bị tung lên lên ngọn cây. Lộn nhào xuống. Mũ cối vẫn trên đầu.

Tôi bò dậy. Cảm thấy khó thở. Mặt ướt đẫm. Hai tay vuốt liên tục. Máu chảy ra từ mũi từ miệng mà tôi tưởng là mồ hôi.

Tôi về hầm. Chúng tôi mới rời đi mấy chục bước chân.

Mày sao nằm đó. Ra mà nhặt anh em. Một người anh quát.

- Không hiểu sao em bị choáng đầu ù tai. – Tôi đáp.
Vậy cứ nằm đó đi.

Trong bóng đêm anh không nhìn thấy mặt tôi lấm máu.

Tôi nằm thêm một lúc rồi cũng phải dậy. Tai vẫn ù đầu vẫn choáng váng. Tôi ra cùng anh em đi nhặt anh em. Những người anh em tôi chưa biết mặt.

Chúng tôi mò mẫm nhặt suốt đêm. Sáng sớm mai nhìn thấy bốn khối thịt xương. Tiếp tục nhặt. Phải nhặt hết. Không được để sót.

Nhìn lên ngọn cây là ruột. Xuống dưới khe là chân. Bên kia sườn núi là đầu. Tôi nhặt đem về đổ vào số xương thịt anh em.

Đại đội trưởng Tài đâu?

Một thân người nằm gục dưới chân cột ngôi nhà sàn. Mảnh bom xuyên thẳng vào hậu môn. Tôi lật mặt người. Đại đội trưởng đã chết cứng.

Tôi tìm thấy ba lô mình văng ra bên một gốc cây đã bị phạt ngang. Hình dung ra cảnh đêm qua mình bị hất tung lên và rơi xuống cùng lúc với thân cây. Tôi đã vướng phải một quả bom đào nổ dưới chân. Nếu không phải bom đào thân thể tôi chắc đang nằm trong đống thịt phân chia đằng kia.

Tiểu đội hỏa lực của tôi đi giữa đội hình đại đội. Một người bị lìa đầu, một người văng mất chân.

Các đơn vị đưa danh sách số người chết. 58 người chết. 60 người bị thương.

58 phần xương thịt chia ra tương đối đồng đều. Không cần khớp. Không cần đầy đủ. Không cần. Không thể.

Trải tăng. Trải ni lông. Bốc thịt bốc xương vào.

58 ngôi mộ.

Ban chỉ huy đại đội 11 bị xóa sổ.

17 tuổi. Tôi viết trong cuốn sổ đây là trận số 10.

Còn bao nhiêu trận đang chờ tôi phía trước?



**13. 阿磊尼耶村之後**

在阿磊尼耶村那場戰鬥之後,我住院兩天。出院時,穿著一套死去戰友留下的衣服和拖鞋。

回到部隊,立刻接到命令,要上新近奪下的陣地駐防。

正值作戰季節,敵軍炮火四面八方,飛機滿天飛。上山的路要穿過溪流與山谷,伙房兵送飯困難,有時兩天都無法抵達。

距離陣地約三百公尺的地方有一處我軍糧倉,一個多月前已被焚毀。排長派兩人去搜看看是否還有能吃的東西。這行動也很冒險,因為敵軍經常在糧倉附近與乾糧桶底下埋地雷。

一個多小時後,兩人扛著一桶焦黑的乾糧回來。我試著刮掉黑炭一樣的外層,只留下手指寬的一點點還呈粉紅色的部分,放入口中強忍著咽下去,但苦到無法吞嚥。

我帶著槍,在陣地附近轉了一圈,看有沒有敵軍遺留的食物。找到幾包戰友留下的飯,那些人早在一週前就已陣亡。我帶回來,用刀削掉發霉長青苔的外層,內層有股酒味。我分給每個人一塊,大家快速吞下。

敵軍的遠程炮集中轟炸23公里處的826高地,連續轟炸十一小時才停。接著,敵軍從山腳三個方向同時爬上來。

距我們約五十公尺時,敵方指揮官大喊「衝鋒!」我們早已在內等待,立刻開火與投擲手榴彈。雙方激烈交戰了一個小時。敵軍死傷無數,潰退下山。我們趁機打開死去敵軍的背包找食物,每包裡都有飯、米、肉卷與香菸。我們邊吃邊笑說:「要是每場仗都有這樣的收穫就好了。」

我開始發高燒,發燒與口渴持續四、五個小時。我迷迷糊糊地躺在交通壕裡。天色昏暗時,指揮官安排我跟隨伙房兵送飯路線返回營部拿藥。我每三小時發燒一次,身體已撐不住。醫護人員安排我撤到後方。

1971年5月下旬,南寮戰役結束。我被送往團級醫院,接著轉至B5戰區的前線醫院。

到那裡我才知道,戰地臨時醫院早已人滿為患,無數從前線送來的傷兵與瘧疾病患排滿整條撤離路線。所有瘧疾與重傷病患必須送往更後方。

軍醫安排我搭上北撤的車。當我們翻越廣治的900高地時,因前方道路剛被炸中,工兵正在搶修,車輛停下。我在車上顫抖發冷,時醒時昏。整車十人,只有我是瘧疾患者,其餘全是重傷兵。沒人能坐起,也沒人說話。偶爾有人因疼痛而大聲喊叫。一顆炸彈在山丘旁爆炸,土石砸落在車斗上,擊中幾名躺著的人,又是一陣痛苦的尖叫。

路搶修完畢,車繼續前行。隔天黎明,我們被抬入一處寬大的岩洞。我退了燒,恢復意識,站起來走動。岩洞裡雖人多卻涼爽。有發電機供燈,有地下水可供生活使用。這是B5戰區的野戰醫院與指揮部所在地。

我在那裡待了一天,親歷十五次空襲。每次炸彈落下,山上白石崩塌,灑落在洞口,如同石灰粉傾瀉。

隔天,我們再次搭車撤離,這回又加載了十五名重傷兵。他們躺在鋪了樹葉的地面上。路況極差,車身猛烈搖晃。有些路段剛修好幾小時又被炸毀,只能停車等待。

深夜,我們抵達永靈地區。醫護人員衝出來抬運重傷者。輕傷者則被扶著、背著送進臨時病棚。移動病床就是用兩根小木頭架著一張木板。人們動作溫柔而溫暖。我感覺自己彷彿回到了家。好久沒體會過家的溫度。

清晨打完針後,我帶著衣服去溪邊洗。浸泡在永靈清澈的溪水中,我的眼淚忍不住潸然落下。怎麼會這麼安靜?沒有炸彈轟鳴,只有遠遠的、稀疏的步槍聲。

我洗了兩套衣服,一套長衣,一套內衣。醫院沒有肥皂,我只能找來粗糙的石頭來刷洗那些乾掉的血漬。

這兩套衣服並不是我的。接下來要穿的,也不是我的。它們原本屬於那些倒在戰場上的人。

同志啊,你這衣服多久沒洗了?我正替你洗衣服,也將穿上它。我正在仔細擦去那些乾硬的血痕與泥土。

一個士兵也下來溪邊洗澡。他看了我的臉,問我是不是新兵。我跟他說了關於衣服的事。他拍拍我肩膀說:「唉呀,這太平常了。你是新兵,我們可是六七、六八年的老兵。不是只有你撿死人衣服穿。我這條褲子被炸彈炸掉半截,我都不知道它原本是誰的。」


13.

Sau trận xảy ra ở bản A Lầy Nhầy tôi phải vào nằm viện hai ngày. Ra viện mặc một bộ quần áo và đi đôi dép nhặt được của người đã hy sinh.

Về đến đơn vị nhận lệnh lên chốt ở căn cứ mới chiếm được hôm trước.

Giữa mùa chiến dịch pháo bắn tứ phương, máy bay hoạt động đầy trời, đường lên chốt qua nhiều khe suối, anh nuôi đưa cơm khó khăn. Có khi hai ngày vẫn không lên được.

Cách trận địa ba trăm mét có kho lương thực của ta đã bị đốt cháy cách đấy hơn một tháng. Trung đội trưởng cho hai người ra kho tìm xem có gì ăn được không mang về. Việc này cũng là liều bởi vì địch thường gài mìn xung quanh kho và dưới các thùng lương khô.

Hơn tiếng đồng hồ sau hai người trở về cùng thùng lương khô đã cháy khét. Tôi cố gạt từng thanh, tách hết lớp cháy đen thui, còn lại một chút bằng ngón tay màu hồng cho vào miệng cố nuốt mà đắng quá không nuốt được.

Tôi mang súng dạo quanh chốt xem địch còn sót lại cái gì ăn được không. Gặp được mấy bọc cơm của anh em đã chết cách đó cả tuần. Mang về dùng dao cắt gọt. Phía ngoài bị mốc rêu xanh, lớp trong mùi rượu. Cắt cho mỗi người mỗi miếng nuốt thật nhanh.

Pháo tầm xa các ngả của địch tập trung bắn về cao điểm 826 ở cây số 23. Bắn liên tục mười một tiếng đồng hồ thì ngớt. Ba phía chân đồi địch bò lên đồng loạt.

Bò lên cách chừng năm mươi mét chỉ huy địch hô to xung phong. Chúng tôi bên trong chờ lúc đó nổ súng và lựu đạn. Hai bên giao tranh liên tục một giờ đồng hồ. Địch chết, bị thương, bỏ chạy xuống chân núi. Anh em mở ba lô địch vừa chết tìm đồ ăn. Ba lô nào cũng có cơm, gạo, giò và thuốc lá. Cười nói với nhau, trận nào cũng được như thế này thì hay quá.

Tôi lên cơn sốt. Sốt và khát nước kéo dài suốt bốn, năm tiếng đồng hồ. Nằm mê man dưới giao thông hào. Xẩm tối chỉ huy chốt cho tôi bám theo anh nuôi đưa cơm về tiểu đoàn uống thuốc. Ba giờ lên cơn sốt một lần. Tôi là đi. Anh em y tá cho tôi về tuyến sau.

Đêm cuối tháng 5 năm 1971 chiến dịch Nam Lào kết thúc. Tôi nằm bệnh viện của trung đoàn. Tiếp tục lên bệnh viện mặt trận B5 của quân khu.

Lên viện mặt trận tôi mới biết bệnh viện dã chiến theo đường dây của chiến dịch có quá nhiều thương binh ở mặt trận về. Thương binh và bệnh binh sốt rét phải đi ra theo tuyến sau.

Anh em y sĩ cho tôi lên một chuyến xe ra Bắc. Vượt qua đèo 900 ở Quảng Trị xe phải dừng lại vì một đoạn đường vừa trúng bom, công binh đang khắc phục. Tôi nằm trên xe rét run lẩy bẩy lúc tỉnh lúc mê. Một mình tôi là bệnh nhân sốt rét, mười người kia là thương binh nặng. Tất cả đều nằm. Không ai ngồi được. Không ai nói với ai câu gì. Thỉnh thoảng có tiếng la hét vì đau quá. Một tiếng bom nổ bên cạnh đồi. Đất đá rơi vào thùng xe trúng vào người đang nằm trên xe. Và lại tiếng la hét.

Đường được san lấp. Xe tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau chúng tôi được cáng vào một hang đá to rộng. Tôi ngắt cơn sốt, tỉnh táo, dậy đi lại. Hang đá đông người nhưng vẫn mát mẻ. Có máy nổ thắp sáng. Có mạch nước ngầm để sinh hoạt. Đó là một bệnh viện của đường dây mặt trận B5 và sở chỉ huy của mặt trận.

Ở lại đây một ngày chứng kiến mười lăm trận bom. Mỗi lần bom dội đá trên núi tuôn xuống cửa hang trắng như vôi.

Hôm sau chúng tôi lên xe và lần này chở thêm mười lăm thương binh. Thương binh nặng nằm trên lớp lá cây. Đường đi quá xấu. Xe lắc mạnh. Có những đoạn đường vừa làm được vài tiếng đồng hồ đã bị phá. Lại dừng chờ.

Tận khuya xe đến đất Vĩnh Linh. Y tá và nhân viên chạy ra khiêng bệnh nhân nặng. Bệnh nhân nhẹ từng người được dìu, được cõng vào lán. Giường cơ động là những tấm phản được đặt trên hai cây gỗ nhỏ. Những cử chỉ ân cần ấm áp. Tôi cảm thấy như được về nhà mình, đang ở nhà mình. Lâu quá rồi tôi không được sống trong hơi ấm gia đình.

Sáng sớm tiêm xong tôi mang quần áo ra suối giặt. Ngâm mình trong nước suối Vĩnh Linh trong vắt ban mai nước mắt tôi lăn trào. Sao mà bình yên thế này. Không tiếng bom gầm. Tiếng đạn bộ binh nghe thưa và xa tít.

Tôi vò hai bộ quần áo. Một bộ dài và một bộ mặc lót. Bệnh viện không có xà phòng tôi phải đi tìm hòn đá nhám để chà cho hết các vết máu khô.

Hai bộ quần áo này đâu phải của tôi. Và bộ quần áo lát nữa sẽ mặc cũng không phải của tôi. Đó là quần áo của những người đã bỏ xác lại chiến trường.

Đồng chí ơi áo quần này bao lâu rồi anh chưa giặt. Tôi đang giặt quần áo cho anh tôi sẽ mặc quần áo của anh. Tôi đang kỳ sạch những vết máu khô bụi đường.

Một người xuống suối tắm. Nhìn vẻ mặt tôi anh hỏi có phải là lính mới không. Tôi nói về những bộ quần áo. Anh vỗ vai ối trời ơi chuyện thường. Mày lính mới chứ bọn tao lính sáu bảy sáu tám. Đâu phải mỗi mày nhặt đồ người chết. Cái quần tao đang mặc đây bị bom làm mất nửa ống rồi, tao cũng không biết mình mặc lại của liệt sĩ nào.

以下是這段越南文的中文翻譯:

---

14.

南寮戰役結束後,我們部隊返回奇英駐紮。1971年10月底,接到前往「B長征」的任務。

七天行軍休息一天。一個月後調整為十天走一天休。行軍一個月零二十九天後抵達中印支三岔口。我們被派往崑嵩。

崑嵩正值乾季。森林中無人煙,彷彿從未有過人類足跡。山中毫無糧食來源,溪流乾涸。師部在此地紮營搭棚,繼續政治學習。

上政治課,教師是從北方來的。我們默默坐著聽。

「越戰越南化」是美帝的陰謀和伎倆,是讓越南人打越南人、以減少美軍傷亡的戰略。越南共和國的軍隊由美國提供經濟與軍事援助,是為美國打仗的雇傭軍。

我們軍人的使命是保衛祖國、統一國家。

我國中七年級還沒念完就丟下課本從軍了。

對國史的認識仍模糊,直到今天這堂歷史課,才真正刻入血液。

白天上政治課,晚上肚子餓得發痛。

飢餓,讓人什麼都想吃。腦中時時刻刻只想找點能吃的東西。

首長們出外偵察,只留下兩名副指揮官與士兵。

每人每天糧配四兩米。沒有蔬菜、沒有配菜、沒有鹽。

但四兩米的配額也撐不久——米沒了。

我們進山找植物、葉子試著嚼嚐,判斷能不能吃。有時走兩三公里找到野葛。乾季時野葛葉子凋零難以察覺,得靠眼力與經驗。

隔天再走三公里,發現一片像椰子的樹林。大家稱它「山椰子」。這種樹高大粗壯,我們爬上去砍頂端,削去外殼,吃裡面嫩芯。全連聚集起來採集。才兩天,已砍倒好幾公頃。怕暴露駐地,師部禁止再砍。

日子就這樣熬著。沒上課就進山覓食。見什麼都咬咬看,苦的就吐掉。

我找到一株苦味絲瓜,回去通知小隊的兄弟。隔天要再去摘時,只剩幾個果實。原來是別隊聽到後搶先採了。

春節來了,這是我從軍後第二個春節。第一年過年還在行軍路上。那時的年節是接連不斷的炸彈轟炸。後來又在戰場上過了三個春節,才覺得這一年的春節最為安寧。

春節配額:七人一兩水牛肉,五人一兩豬肉,一人兩兩糯米,三人兩兩糖,三人一兩散煙加捲菸紙。

小隊討論後擬定計畫:帶著私人物品進村莊換糯米。

駐地距離最近的村莊十五公里。

我們能拿什麼去換呢?

準備了橡膠繩(可替換鞋帶)、毛巾、眼藥水、手帕、親人照片等。

打開背包,大家有什麼貢獻什麼。

我與小隊長「祁維緹」出發去找村民換物。他現在是小隊長了。我們得偷偷摸摸出發,不能被師部與其他單位發現。

晚上九點,我們兩人出發。手電筒只讓光線像玉米粒般大小。用指南針朝西南方前進。

摸黑沿小徑走,次日清晨抵達村莊。我們講京語,他們說少數民族語。

我們拿出東西展示,用手勢交換。

小隊長示範將橡膠繩與鞋底組裝成涼鞋。一雙鞋子立刻完成。

村民喜歡嗎?喜歡。

那就用一段橡膠繩換兩筒糯米。村民答應了。五段橡膠繩換得十筒米。

我拿出眼藥水,替三個眼睛發紅的村民點藥,讓他們感受到這是「寶藥」。

他們回頭交頭接耳,片刻後更多人湧來。我與小隊長像街頭魔術師般表演,在驚訝的眼神中點藥。

村民開心嗎?人人點頭。一瓶眼藥水可換五筒米。

一條手帕可換兩筒竹筒飯。繡上「獻給最親愛的」與花朵的手帕換了三筒。

還有女朋友的照片。小隊長叫一位年輕人來,問:「喜歡嗎?」喜歡。那就換,等她來接人吧。父親的照片也受到村民喜愛。

傍晚時分,兩個背包塞得滿滿。交換物品已全數用盡。我們約定明日再來,會帶更多珍貴東西。

一位女孩露出惋惜神色。我說:還有這個可換。我把她拉到角落,指著我身上那條紅色短褲。她表示願用一背簍青菜換這條紅褲。

穿越森林回單位,等到天黑才敢出來。若此事被發現,會被處分。

兄弟們浸泡糯米、包粽子,向炊事員借鍋煮飯。除夕夜我提一顆粽子去送副連長。他驚訝問:「哪來的粽子?慘了慘了,你們這樣做會出事!」

在西原那幾年,先談「吃」,再談打仗。

我們連鹽都缺。整整一個月沒有鹽。

沒鹽怎麼辦?

砍竹子,燒其節點成灰,當鹽用。或猛吃辣椒代替。

某日,有人高喊「有鹽了!」——那是鹽礦,從山中挖來的鹽塊。大塊頭鹽,放入軍鍋煮開,湯黑又髒。

繼續熬,像煉膏一樣,整天熬,直到融化成細鹽,才分給各單位。

我們顫抖著拄著杖從山坡下爬上去。山坡上出現一位村姑。她下山,裙擺飄揚,面容清麗,為一天的疲勞增添一點興奮。

走到半坡,士兵們慢下來,她也慢下來。彼此對望,靠得很近。

小頑童鍾用棍子挑起她的裙子說:「哎,村民,這是什麼?」

原來這姑娘是村長的女兒。

傍晚,我們回單位時,她已與父親一同前來等候。父女倆向長官舉報。

「部隊不規矩,看到我女兒的寶貝。咱村從未有過這種事。現在她沒人敢娶,嫁不出去了。」

政治部與外事部門出面協調,村長開口索賠三百公斤鹽。

不賠就開槍打兵。

三百公斤鹽對一個師來說可用很久,從北方運到西原更是難事。這些村民居於敵我之間,我方正爭取他們支持,若失民心,後果嚴重。

雨季來臨。森林翠綠清涼。

溪水復流,大家去捉魚。砍蕨類樹,取其芯與魚同煮。這種蕨類多年成木,高大如樹。

一位隊員採回一籃蘑菇煮粥,結果中毒。七人嘔吐腹瀉。全連僅存一斤糖,原為指揮部急救所用,最後也拿來解毒。

找到一片香蕉園後,連續幾天只吃香蕉充飢。結果便祕一週,人人如大病初癒。

偷偷去挖村民的樹薯。煮得半生不熟,還沒通知大家,敵軍飛機已來偵察。「死就死吧,老子要先吃!」來自高平的湯哥跑著,手裡還拿著熱薯。希望他嘴裡含著薯的時候別受傷。

我進村時已無人,他們不知遷往何處。只剩一條狗。我打死帶回給兄弟充飢。

瘧疾病患每週配一次魚醬,每人一湯匙。從柬埔寨運來的魚醬早已變味。昏迷中,我夢見自己吃著一碗熱飯配芝麻鹽。

從寧平、清化出發的一百輛補給車,有多少能穿越義靜地區?有多少能抵達廣治,再進入西原?

有多少補給車半路燒毀?有多少司機受傷?我們知道為何會餓,我們得想辦法活下去。

哨所沒吃的,炊事兵送不上來,我們就希望敵人來——因為敵人背包裡有糧。

高地兩個據點A與B。據點A擊斃敵軍,繳獲一袋米。夜裡敵軍不來,我們半夜拿敵軍彈藥箱(當鍋用)煮飯,並通知據點B的兄弟過來一起吃。

六人蜷在矮坑中等飯煮熟。個個眼巴巴望著鍋子。新兵不知要先拆橡膠圈就開煮。結果——砰一聲巨響,鍋蓋炸飛,米飯濺得滿臉滿眼。全員燙傷。據點B的兄弟被燙得最重,一隻眼睛失明。那一夜,他是被「米炸彈」炸傷的。

---

如需將這段整理為文稿或加註歷史背景,請告訴我。


14.

Sau chiến dịch Nam Lào đơn vị quay về đóng quân tại Kỳ Anh. Cuối tháng 10 năm 1971 nhận nhiệm vụ đi B dài.

Bảy ngày đi được một ngày nghỉ. Sau một tháng nâng lên mười ngày đi một ngày nghỉ. Đi được một tháng hai chín ngày tới Ngã ba Đông Dương. Chúng tôi được bố trí đến Kon Tum.

Kon Tum mùa khô. Khu rừng không có dân cư. Nơi đây có vẻ như chưa từng có dấu chân người. Trên rừng không biết kiếm thứ gì ăn. Khe suối khô cạn. Sư đoàn dừng lại đây dựng lán trại và tiếp tục học chính trị.

Học chính trị. Giáo viên là những người ngoài Bắc vào. Chúng tôi ngồi im chúng tôi nghe.

Việt Nam hóa chiến tranh là âm mưu, thủ đoạn của Đế quốc Mỹ; là chiến lược dùng người Việt đánh người Việt để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường. Lực lượng quân đội của chính phủ Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ về tài lực và quân sự đánh thuê cho Mỹ.

Sứ mệnh của người lính chúng ta là bảo vệ tổ quốc, thống nhất đất nước.

Tôi học chưa xong lớp bảy buông sách vở ra đi.

Kiến thức về lịch sử đất nước còn mơ hồ. Bài giảng về lịch sử hôm nay ngấm vào máu.

Ban ngày học chính trị đêm về thì đói. Đói cồn cào ruột gan.

Đói. Nghĩ gì cũng thèm. Đói. Lúc nào trong đầu cũng nghĩ cách kiếm cái gì cho vào bụng.

Các thủ trưởng đi trinh sát. Sư đoàn còn lại hai cấp phó và anh em lính.

Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo. Không rau, không thức ăn, không muối.

Tiêu chuẩn mỗi người một ngày bốn lạng gạo rồi cũng không còn được duy trì. Gạo đã hết.

Chúng tôi vào rừng tìm nhai thử các loài cây lá xem có gì ăn được hay không mang về. Đi hai, ba cây số tìm được củ mài. Mùa khô cây khoai mài bị trụi lá khó phát hiện, tinh mắt và có kinh nghiệm đi rừng mới tìm được.

Ngày hôm sau đi thêm ba cây số nữa phát hiện ra một rừng cây giống như cây dừa. Anh em gọi là dừa núi. Cây dừa núi cao, thân to. Trèo lên chặt ngọn xuống rồi băm bỏ hết phần thân ngoài, ăn phần nõn. Cả tiểu đoàn tập trung về đó khai thác. Mới hai ngày mà cây đổ ngã vài héc ta. Sợ lộ nơi đóng quân, trung đoàn không cho khai thác nữa.

Cứ lần hồi qua ngày như vậy. Ngày nào không học chính trị thì đi rừng tìm lượm. Thấy gì cũng cắn thử nhai thử, vị đắng thì nhả ra.

Tôi tìm thấy một cây mướp có vị đắng. Về thông báo với anh em trong tiểu đội. Hôm sau vào hái thì cây mướp chỉ còn lại mấy quả. Đêm qua ai đó ở tiêu đội khác nghe được và họ đã đi hái trước.

Tết đến. Cái tết thứ hai của đời lính. Tết đầu tiên trên đường hành quân. Quà tết là những trận bom nổ toác đường đi. Sau này, đón thêm ba cái tết ở chiến trường nữa mới thấy được đây là cái tết yên vui nhất đối với tôi trong những năm ở rừng.

Tiêu chuẩn tết: Bảy người một lạng thịt trâu. Năm người một lạng thịt lợn. Một người hai lạng nếp. Ba người hai lạng đường. Ba người một lạng thuốc lá rời có kèm theo giấy để cuốn.

Anh em trong tiểu đội bàn bạc. Một kế hoạch được lập ra. Chúng ta sẽ mang đồ dùng cá nhân đi vào bản làng đổi nếp.

Cách nơi chúng tôi đóng quân mười lăm cây số có một bản làng.

Những người lính có gì để mang đi đổi?

Đoạn dây cao su phòng khi đứt quai dép thì thay, khăn mặt, lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mùi soa, ảnh người thân, các lọ thuốc nhỏ mắt.

Đổ hết đồ trong ba lô ra, ai có gì góp nấy.

Tôi và anh Kiều Duy Tý lên đường đi tìm đồng bào đổi quà. Anh Kiều Duy Tý giờ đã là tiểu đội trưởng. Phải đi thật kín đáo để trung đoàn bộ và các đơn vị bạn không nhận ra.

Chín giờ đêm hai anh em lên đường. Đèn pin ngụy trang, chỉ để ánh sáng lọt ra bằng hạt ngô, dùng la bàn chỉ theo hướng Tây Nam.

Mò mẫm theo đường mòn sáng hôm sau thì đến bản. Chúng tôi nói tiếng Kinh họ nói tiếng đồng bào.

Chúng tôi đưa các đồ vật ra khoe và ra ký hiệu đổi.

Tiểu đội trưởng giơ cuộn dây cao su và đế dép cao su ra làm mẫu. Một đôi dép cao su hoàn thành trong chốc lát.

Đồng bào thích không?

Thích.

Thích thì một đoạn dây đổi hai típ gạo nếp.

Đồng bào đồng ý đổi. Năm đoạn dây cao su đổi được mười típ gạo.

Tôi đưa lọ thuốc nhỏ mắt ra, gọi ba người mắt kèm nhem đứng xếp hàng để nhỏ vào mắt cho họ. Đồng bào hiểu ý đây là thuốc quý làm sạch mắt bẩn.

Họ quay lại nói với nhau điều gì đó. Một lúc sau thấy nhiều người kéo đến. Hai anh em như hai nghệ sĩ tài ba đứng biểu diễn ảo thuật trước những con mắt ngạc nhiên thán phục của dân bản.

Đồng bào thích không? Ai cũng gật đầu. Một lọ thuốc nhỏ mắt đổi năm típ gạo.

Một cái khăn mùi soa đổi hai ống cơm lam. Riêng chiếc khăn có dòng thêu mến tặng và bông hoa đổi được ba ống cơm lam.

Còn ảnh cô bạn gái. Tiểu đội trưởng gọi một thanh niên lại. Có thích không? Thích. Thích thì đổi. Đợi khi nào cô ấy vào thì lấy. Bức ảnh của người bố. đồng bào thích không?

Xế chiều, hai ba lô chật căng. Đồ mang đi đổi cũng đã hết. Chúng tôi hẹn hôm sau quay lại mang theo nhiều thứ quý giá.

Một cô gái có vẻ như nuối tiếc. Tôi nói, còn cái này để đổi nữa thôi. Tôi kéo cô lại chỗ kín đáo, chỉ vào cái quần đùi màu đỏ đang mặc trên người. Cô ra hiệu muốn đổi chiếc quần màu đỏ bằng một gùi rau cải.

Băng rừng, về đơn vị. Chờ tới trời tối mịt chúng tôi mới dám ra khỏi rừng. Chuyện này lộ ra sẽ bị kỷ luật.

Anh em ngâm gạo, gói bánh, mượn nồi anh nuôi về nấu. Đêm ba mươi tôi mang một chiếc bánh lên biếu đại đội phó. Bánh đâu ra thế này. Chết chết. Các cậu làm thế này thì chết.

Những năm tháng ở Tây Nguyên, hãy nói về chuyện ăn trước khi nói chuyện đánh nhau.

Thiếu muối. Cả tháng trời không có muối.

Không có muối chúng tôi phải làm cách gì?

Chặt tre, đốt phần mắt tre cháy thành than dùng thay muối. Hoặc ăn thật nhiều ớt.

Một hôm có người anh em reo lên mừng rỡ. Có muối rồi. Đó là muối mỏ. Muối này chát xít, đào trên rừng mang về, từng cục to tướng. Cho vào nồi quân dụng luộc sôi. Đổ nước đen bẩn.

Tiếp tục nấu. Nấu suốt cả ngày như nấu cao. Cho đến khi cục muối tan mịn mới chia về các đơn vị.

Chúng tôi run rẩy chống gậy đi từ dưới dốc lên. Trên dốc xuất hiện cô gái bản. Cô đang đi xuống. Váy xòe tung tẩy. Khuôn mặt tươi sáng. Chút phấn khích cho một ngày hành quân mệt mỏi.

Lưng chừng dốc, bộ đội đi chậm lại, cô em cũng đi chậm lại. Nhìn nhau. Sát vào mặt nhau.

Thằng Chung nghịch ngợm dùng cây gậy trong tay khều váy cô em: Ê đồng bào, cái gì đây?

Cô gái là con ông trưởng bản.

Chiều tối về đơn vị đã thấy cô gái cùng với cha mình ra ngồi chờ đấy. Hai cha con đến báo cáo sự việc lên thủ trưởng.

Bộ đội không tốt. Bộ đội nhìn thấy của quý của con gái mình rồi. Đồng bào mình không bao giờ có chuyện đó. Bộ đội làm chuyện xấu giờ con mình không ai lấy nữa, không có chồng nữa.

Bộ phận chính trị – ngoại giao đứng ra thu xếp với trưởng bản. Trưởng bản bắt đền ba tạ muối.

Không đền thì phải bắn bộ đội.

Ba tạ muối đủ cho cả một sư đoàn dùng trong thời gian dài. Ba tạ muối đưa được từ Bắc vào Tây Nguyên là chuyện không đơn giản. Dân bản ở đây nằm giữa ta và địch. Ta đang muốn dân bản về phía mình. Để họ mất lòng là nguy hiểm.

Mùa mưa tới. Rừng xanh tươi, mát mẻ.

Suối nước đã tràn về, xuống khe bắt cá. Chặt cây dương xỉ bên bờ suối, lấy phần lõi, đem về kho với cá. Cây dương xỉ trong rừng lâu năm, cao vòng như cây gỗ.

Một người trong tiểu đội tìm được rổ nấm mang về nấu cháo. Nấm độc. Ăn xong bảy người nôn mửa, đi ngoài. Cả tiểu đoàn còn một cân đường để dành cấp cứu cho ban chỉ huy phải đưa ra giải độc.

Gặp được vườn chuối ngày nào cũng ăn chuối trừ bữa. Sau một tuần không đi ngoài được, ai nấy như rơi vào trận ốm nặng.

Đi ăn trộm trộm sắn của đồng bào. Sắn luộc nửa chín, nửa sống chưa kịp thông báo cho anh em thì máy bay địch rà rà trinh sát. Chết thì chết tao ăn cái đã. Anh Thắm người Cao Bằng chạy đi tay vẫn cầm theo sắn nóng. Cầu mong anh đừng bị thương khi sắn vẫn ngậm trong mồm.

Tôi đi vào bản không còn ai. Họ đã chuyển đi đâu không rõ. Còn lại một con chó. Tôi đập chết con chó mang về cứu đói anh em.

Tiêu chuẩn bệnh nhân sốt rét mỗi tuần được một bữa cá mắm, một thìa canh. Cá mắm vận chuyển từ Campuchia về đến mặt trận đã thành ruốc mùi khó chịu. Trong cơn mê man tôi mơ được ăn bát cơm nóng muối vừng.

Một trăm xe hàng xuất phát từ Ninh Bình, Thanh Hóa có bao nhiêu xe qua được vùng Nghệ Tĩnh. Và trong số xe đi đến Quảng Trị bao nhiêu lên được tới Tây Nguyên?

Bao nhiêu xe chở hàng cháy dọc đường. Bao nhiêu người lính lái xe đã bị thương. Chúng tôi biết vì sao mình đói. Chúng tôi phải tìm cách để sinh tồn.

Canh chốt đói là anh nuôi không lên được chúng tôi mong địch lên. Trong ba lô địch luôn có đồ ăn.

Trên đồi cao hai điểm chốt A và B. Bên chốt A diệt địch thu được chiến lợi phẩm là bao gạo. Ban đêm địch không lên chốt. Nửa đêm anh em mang nồi đại liên đựng đạn của địch ra nấu cơm. Nhắn người bên chốt B sang ăn cùng.

Sáu anh em ngồi trong hầm thấp chờ cơm chín. Những khuôn mặt háo hức nhìn xuống nồi cơm. Người lính mới dùng nồi đại liên không biết tháo dây roăng trước khi nấu. Tiếng nổ vang. Nồi cơm bung nắp. Cơm bắn tung tóe vào mặt vào mắt. Tất cả đều bị bỏng. Người anh ở chốt B sang bỏng nặng quá một mắt bị mù. Anh ấy đã bị thương vì bom cơm trên chốt lúc giữa đêm.


15

---

**1972年崑嵩戰役**

**1月12日夜間**

第九營包圍了1015高地。

高地上駐有一個由潘孟雄指揮的敵軍連隊。

被俘後,潘供稱自己是北方人,1954年七歲時隨兄長南下,後加入越南共和國軍。他的母親至今仍在河內銀街賣茶水。他不希望母親知道自己的消息。

敵人在這個高地駐紮已久,設有雙層鐵絲網,壕溝工事堅固。我們營分三個方向進攻,開火一整天仍無法攻下任何碉堡。我們雖包圍敵軍,但只能堅守在據點外,敵人從裡面盡情開火,我們趁敵人火力稀疏時向前推進幾米,整夜僵持不下。

通訊線斷,無線電無信號。次日清晨我親自跑去東側送命令。營長范文誠告訴我:「同志去第十連,傳達營部命令,用D.K火箭打七發開路,必須迅速攻佔陣地。」

第十連由和平同志指揮。1月10日第十連剛攻下982高地的特種部隊據點。

從指揮部到第十連空距約兩公里,但實際得繞四公里山路。我與湯同志同行。

我們必須繞過敵軍前哨陣地,那些陣地位於密林溪谷間的小道上。飛機不停投擲子母彈和火箭。我們身上只有一支AK和兩顆手榴彈。

我對湯說:「耳要靈、眼要尖、行動無聲、緊跟我,若遇敵即刻開火,聽我命令。」

三小時後我們才找到和平同志。他說:「請回報營部,請求增援,第十連已傷亡過半。」

我們與兩名抬擔架的運輸兵一同撤退。

途中,一支敵軍小隊從14號公路上來,正巡邏並支援高地。

兩名運輸兵將傷兵放在樹下,讓其休息,自己則與我和湯一同迎敵。

他們僅有一把槍。按理每人應配槍。我說:「四人三槍也能打,打下來搶他們的槍。」

我們緊跟敵軍,激戰逾一小時,我邊開火邊高呼衝鋒,四名敵軍當場倒下,餘者逃跑。戰鬥簡潔乾脆。事後我獲表揚。

**1月16日**

我與營長范文誠及一偵察小隊巡視戰場。部署完防守部隊後,上午八點敵軍炮火猛烈轟炸陣地,調來一個步兵營企圖奪回昨日失守的高地,連續施放催淚彈與化學彈。我們淚流鼻涕、眼花頭暈。

三個水壺全空。找不到營長的毛巾。我尿在自己毛巾上,撕一半給他,敷在臉上減輕毒性。

我們剛返回指揮所,敵軍步兵即包圍我們剛離開的陣地。當時陣地僅有20人及一台無線電。敵機投擲子母彈、照明彈與凝固汽油彈,回報傷五死五,剩十人。

下午三點敵軍步兵進攻,剩下十人奮力反擊,敵人未能奪得一寸陣地。

第九營堅守此地一週,激戰十二次,補充一百兵力遠不及損失。

師部來電:我軍已掌控敵軍外圍、防住14號公路、控制二十公里,並繼續擴張戰果。

我軍開始北撤,進逼崑嵩市郊。

**1月23日**

14號公路601高地,該區滿是藤竹荊棘,寸步難行,砍草會引敵,只能踩刺前行。

距敵百米時被發現。儘管如此,兩路步兵至夜十時仍接近第一道鐵絲網。該點敵設五重鐵絲網。我們用擴音器呼喊。敵人已損兵半月,補充有限。

擴音器一響,敵軍火力如雨傾瀉。

**1月28日**

攻擊鋸木廠據點。該處為14號公路西側一高地。

摸黑一夜,才設下營指揮所。

清晨六時,第十連涉水到達戰場。敵軍發現,集火轟擊,槍聲不絕,第十連多數被困在溪邊。

第十一連走失。我奉命尋找。

獨自穿越藤竹林,炸彈仍落。我站高地觀察方位,邊跑邊辨方向。

帶領第十一連回陣後,返回營部,約凌晨一、兩點。照明彈不停、飛機投燈、炸彈使竹林橫倒。我跌倒,竹子劃傷腳踝,血流不止。右手握著AK槍機組件,跌倒時手掌被刺穿。我坐起,撕衣裹傷。

天亮時終回到營部,眾人見我手腳血淋淋。我極痛,卻強裝若無其事。

「當兵就是這樣。」我脫口而出。

自己都驚訝說出這句人人掛在嘴邊的話。對我而言,第一次說出,內心悸動。我是否已變得堅毅、成熟?

儘管敵火不斷,第十連仍在挖壕。人臥地挖,和平同志挖至膝深,其餘人僅二十公分,堆土作掩體。

下午一點敵軍向第十連進攻。

三點,第十連全軍覆沒。

連長和平戰死壕邊,上半身趴於壕口,下半身被敵人扯開手榴彈安全扣引爆炸碎。我摸其胸膛尚溫。我憤怒如火,代營部指揮作戰。

我命第十一連接替第十連,並命運輸兵收殮烈士遺體。任務完畢後,我向營部方向前進。離陣不久,草叢傳出呻吟聲。我爬進去,找到與我同入伍的2W士兵余與另一名步兵。兩人下午受傷躲入草叢。我扶他們回營部。

運輸兵將第十連烈士遺體放置營指揮壕中。半夜我出去認識面孔。我饞菸,摸索烈士衣袋,在一人衣袋找到皮夾,裡面有女友照片與一小撮菸。我將照片放回原位,取出菸絲,低語:「兄弟,你走了不能抽,這煙我拿了。」我當場捲菸深吸一口。

第十二火力連得知第十連覆滅後,12.7機槍、82迫砲、D.K.Z齊發,敵軍支撐不住一小時潰逃。第十一連衝鋒。

敵軍挾一群平民,混入群中撤向崑嵩市。我營三路包抄,敵我混雜延綿數公里。營長命我通知第十一連攔截群眾。追出兩公里遇一敵軍據點阻路。敵火封鎖,我軍恐誤傷平民,臨時決議改向,兩連合圍據點。320師分多路攻崑嵩市。我營北攻,進至圓丘後精疲力盡。

此時我營兵力僅剩一連,師部無兵可補,轉為「圍困滲透」戰術。該據點為朴正熙軍人。我軍封鎖內外兩月,敵困不出不入,狙擊不斷。第三月66團接替,一夜攻克。第九營火速轉進嘉萊。

途中遇雨,四月以來首場清涼大雨。四月未曾休息,眾人皆嗜睡,邊走邊打盹,道路濕滑,跌倒接連不斷。

經過師部醫院,我遇村人壽,炸彈炸斷左手,他需長期住院。久別重逢,鼻酸流淚。我握他僅存的右手說:「若能回北方,請告訴母親與妹妹,我仍健在,正戰鬥中,不知何時歸。」

---

如需簡化版本或製作成講演、圖表等形式,也可以協助整理。




15.

Chiến dịch Kon Tum 1972.

Đêm 12 tháng 1.

Tiểu đoàn 9 vây cao điểm 1015.

Trên cao điểm địch đóng một đại đội do Phan Mạnh Hùng làm chỉ huy.

Sau khi bị bắt tên Hùng khai là dân gốc Bắc. Năm một chín năm tư hắn bảy tuổi, theo anh em vào Nam rồi gia nhập quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mẹ hắn vẫn bán quán nước ở phố Hàng Bạc, Hà Nội. Hắn không muốn mẹ biết tin về mình.

Địch đóng ở cao điểm này đã lâu. Hàng rào có hai lớp. Hầm hố chắc chắn. Tiểu đoàn tôi chia ba mũi. Nổ súng một ngày vẫn chưa chiếm được lô cốt nào. Chúng tôi vây được địch nhưng chỉ cầm cự ở ngoài đồn. Địch ở trong thả sức nổ súng. Lợi dụng tiếng súng thưa lại nhích thêm vài ba mét. Cầm cự suốt đêm đó.

Thông tin hữu tuyến đứt dây, vô tuyến không có tín hiệu, sáng hôm sau tôi phải chạy đi đưa công văn đến phía đông đồn địch. Tiểu đoàn trưởng là ông Phạm Văn Thành nói với tôi: “Đồng chí về phía đại đội 10 nói là lệnh của tiểu đoàn dùng D.K bắn bảy quả để mở cửa và phải khẩn trương để cho anh em phát triển chiếm trận địa càng sớm càng tốt".

Đại đội 10 do anh Hòa chỉ huy. Sáng ngày 10 đại đội 10 đánh đại đội biệt kích ở cao điểm 982 và đã làm chủ được trận địa.

Từ chỉ huy đoàn đến hướng đại đội 10 khoảng hai cây số đường chim bay nhưng phải đi mất bốn cây số mới tới. Tôi đi cùng anh Thắm.

Chúng tôi phải lần qua tổ tiền tiêu của địch nằm trên trục đường đi lại ở giữa rừng rậm khe suối. Máy bay nhả bom bi và rocket liên tục. Trên người tôi chỉ có một khẩu AK, hai quả lựu đạn.

Tôi bảo anh Thắm: tai thật thính, mắt thật tỉnh, đi không được tạo ra tiếng động, bám sát tôi, nếu gặp địch phải nổ súng ngay và nghe theo lệnh của tôi.

Ba tiếng đồng hồ chúng tôi mới gặp được anh Hòa. Anh nói: “Đồng chí về báo tiểu đoàn chi viện thêm quân, đại đội 10 đã thương vong một nửa”.

Tôi và anh Thắm quay ra, bám theo hai người lính vận tải đang cáng thương binh.

Một tiểu đội địch từ đường 14 đi lên. Chúng vừa đi tuần vừa đi chi viện cho cao điểm.

Hai người vận tải đặt cáng thương binh bên cạnh gốc cây, cho anh thương binh nằm nghỉ tại đấy, quay lại cùng nổ súng với tôi và anh Thắm.

Họ chỉ có một khẩu súng. Về nguyên tắc người nào cũng phải mang súng. Tôi bảo, bốn người ba khẩu súng cũng chơi, ta sẽ diệt địch lấy súng.

Chúng tôi bám theo địch. Hai bên cầm cự hơn tiếng đồng hồ. Tôi vừa nổ súng vừa hô xung phong. Bốn tên địch gục tại chỗ, những tên còn lại bỏ chạy. Trận đánh gọn gàng, đơn giản. Tôi sau đó được bằng khen.

Ngày 16 tháng 1.

Tôi cùng ông Thành và một tiểu đội trinh sát đi kiểm tra trận địa. Bố trí xong bộ phận chốt giữ, khoảng tám giờ sáng pháo của địch bắn tới tấp vào trận địa. Địch điều một tiểu đoàn bộ binh đến hòng lấy lại cao điểm ngày hôm qua bị thất bại. Đạn cay,đạn hóa học bắn liên tục. Chúng tôi bị chảy nước mắt, nước mũi, hoa mắt, đầu óc ngây ngất.

Ba cái bị đông không còn giọt nước nào. Khăn mặt ông Thành tìm không thấy. Tôi đái vào chiếc khăn của mình, xé đôi, chia cho ông một nửa úp vào mặt để giảm bớt nồng độ chất độc.

Về đến sở chỉ huy thì cũng là lúc bộ binh địch tràn đến bao vây trận địa khi chúng tôi vừa đi khỏi. Trong trận địa lúc đó chỉ có hai mươi người và một vô tuyến. Máy bay bỏ bom bi, bom phát quang, napalm. Anh em báo về con số bị thương năm, chết năm còn lại mười.

Ba giờ chiều địch ngừng bom pháo, bộ binh tiến lên chiếm. Mười người còn lại bắn trả xối xả. Địch không chiếm được mét trận địa nào.

Tiểu đoàn 9 bám trụ tại đây một tuần với mười hai trận đánh. Một trăm quân được bổ sung quá ít so với con số thiệt mạng.

Tin từ sư đoàn: Ta đã làm chủ được vòng ngoài của địch, bảo vệ được trục đường 14, canh giữ được trên hai mươi cây số và tiếp tục phát triển.

Chúng tôi rút quân và tiến về phía bắc thị xã Kon Tum.

Ngày 23 tháng 1.

Cao điểm 601 đường 14. Vùng này toàn cây le và cây tre lắm gai đi rất vướng. Chặt cây thì phát tiếng động đành dẫm lên gai mà đi.

Cách đồn địch chừng trăm mét chúng tôi bị lộ. Bị lộ nhưng hai mũi bộ binh đến mười giờ đêm cũng đã tiếp cận đến hàng rào thứ nhất. Điểm này địch có năm lớp hàng rào. Chúng tôi dùng loa kêu gọi. “Địch vận” vì chiến dịch mở ra nửa tháng, quân hao tổn nhiều, số quân bổ sung chẳng thấm vào đâu.

Tiếng loa vừa cất lên thì hỏa lực của địch bắn ra như mưa.

Ngày 28 tháng 1.

Tiếp tục đánh căn cứ xưởng cưa. Xưởng cưa là một căn cứ nằm trên quả đồi phía tây đường 14.

Qua một đêm lần mò chúng tôi mới tới nơi để đặt sở chỉ huy tiểu đoàn.

Sáu giờ sáng, đại đội 10 cũng vượt suối tới trận địa. Địch phát hiện ra, tập trung hỏa lực, súng to, súng nhỏ bắn liên hồi. Đại đội 10 phải nằm lại phần nhiều ở bờ suối.

Đại đội 11 bị lạc. Tôi được lệnh phải đi tìm.

Một mình tôi đi giữa rừng cây le, bom vẫn dội, đứng trên cao điểm nhìn xuống thấy như một biển nước màu vàng. Tôi vừa chạy vừa xác định phương hướng.

Dẫn đại đội 11 về vị trí xong tôi lại lần mò về nơi chỉ huy của tiểu đoàn. Lúc này có lẽ đã một, hai giờ sáng. Pháo sáng liên tục. Máy bay thả đèn dù. Bom pháo làm tre đổ ngổn ngang. Tôi vấp ngã, tre cắt ngang cổ chân tôi, máu chảy nhiều. Trên tay tôi còn phải cầm bộ phận quy lát của AK để chạy. Khi ngã thân người tôi đổ dồn về phía trước nên bị quy lát đâm thủng lòng bàn tay phải. Tôi ngồi dậy. Xé thân áo băng cả chân và tay.

Gần sáng tôi về được đến nơi. Mọi người lo lắng nhìn bàn tay bàn chân tôi máu lem nhem. Tôi rất đau nhưng tỏ ra như không có chuyện gì.

“Đời lính là vậy”. Tôi buột miệng.

Tôi ngỡ ngàng, mình đã thốt ra những từ đó. Những từ cửa miệng quen thuộc ai cũng nói. Vậy mà với tôi khi lần đầu tiên nói ra, thấy ngạc nhiên và xốn xang. Phải chăng tôi tôi đã gan lỳ, tôi đã lớn lao hơn.

Địch bắn không ngừng nghỉ nhưng anh em đại đội 10 vẫn đào được hầm chiến đấu. Mọi người nằm đào. Chỉ có anh Hòa đào được tới đầu gối còn nữa đào được khoảng hai mươi phân và dồn đất lên đầu để làm bệ bắn.

Đến một giờ chiều địch mở cuộc tấn công ra chỗ đại đội 10.

Ba giờ chiều đại đội 10 bị xóa sổ.

Anh Hòa đại đội trưởng chết gục ngay tại hầm đang đào. Nửa người trên nằm sấp trên miệng hầm, nửa còn lại bị địch rút chốt an toàn quả lựu đạn đeo ở thắt lưng nên phần mông và ngang thắt lưng bị lựu đạn nổ tung bay mất. Tôi sờ vào ngực anh vẫn còn nóng. Người tôi như bốc lửa. Tôi chỉ huy anh em như một cán bộ tiểu đoàn.

Tôi bố trí cho đại đội 11 thay cho đại đội 10. Bảo anh em vận tải gom xác liệt sĩ vào một nơi. Xong phần việc của mình, tôi đi tiếp về hướng tiểu đoàn bộ. Vừa rời khỏi trận địa nghe tiếng rên rỉ trong bụi rậm. Xác định là người của ta rồi. Tôi bò vào. Là anh Dư lính 2W cùng ngày nhập ngũ với tôi và một đồng chí bộ binh. Hai anh bị thương lúc chiều và trốn vào bụi cây. Tôi dìu hai anh về tiểu đoàn.

Anh em vận tải đưa liệt sĩ của đại đội 10 về để ngay trong hầm chỉ huy tiểu đoàn. Nửa đêm tôi đi ra xem có khuôn mặt nào quen không. Tôi thèm thuốc. Tôi sờ vào ngực áo và túi quần các liệt sĩ. Trong túi áo một liệt sĩ có cái ví. Trong ví có ảnh cô bạn gái và một nhúm thuốc lá. Tôi trả bức ảnh lại vị trí cũ, moi hết ra các sợi thuốc. Tôi thầm thì với anh: Anh ơi anh chết rồi không hút thuốc được nữa. Tôi thèm quá cho tôi xin anh nhé. Tôi ngồi ngay đó quấn điếu thuốc hút một hơi dài.

Đại đội 12 hỏa lực biết đại đội 10 bị xóa sổ, các xạ thủ 12 ly 7, cối 82, Đ.K.Z đồng loạt nổ súng. Địch trong đồn chống đỡ không quá được một tiếng đồng hồ nháo nhác tháo chạy. Đại đội 11 xông lên.

Địch đang giữ một đoàn người dân. Lợi dụng lúc này địch trà trộn với người dân chạy vào hướng thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn xung phong cả ba mặt đường. Quân ta quân địch kéo dài hàng cây số. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho tôi đuổi theo đại đội 11 báo họ chặn đoàn người lại. Phát triển được hai cây số lại gặp ngay đồn địch nằm cạnh đường. Địch trong đồn bắn ra chặn đường. Sợ bắn nhầm vào người dân tiểu đoàn lệnh anh em rẽ phải hội ý chớp nhoáng. Hai đại đội tiếp cận, bao vây đồn địch. Sư đoàn 320 chia nhiều hướng đánh vào thị xã Kon Tum. Tiểu đoàn 9 chúng tôi phải bám trụ và tiến công hướng bắc. Đánh vào đến đồi tròn thì kiệt sức.

Số quân tiểu đoàn giờ chỉ bằng một đại đội. Sư đoàn không còn người bổ sung. Chuyển sang đánh chiến thuật vây lấn. Căn cứ này toàn lính Park Chung Hee. Chúng tôi vây chặt vòng ngoài. Địch không vào được không ra được. Hai tháng cầm cự bắn tỉa. Đến tháng thứ ba trung đoàn 66 vào thay. Qua một đêm trung đoàn 66 làm chủ được trận địa. Tiểu đoàn 9 hành quân khẩn cấp về Gia Lai.

Hành quân được mấy ngày gặp trận mưa rào mát mẻ. Bốn tháng rồi chưa một ngày được nghỉ, được ngủ. Ai cũng thèm ngủ. Chân bước mà mắt ríu lại. Nhiều anh em vừa đi vừa ngủ. Đường trơn trượt. Ngã đoành đoạch hết người nọ tới người kia.

Đi qua một bệnh viện của sư đoàn tôi gặp anh Thọ. Bom cắt mất bàn tay trái, anh phải nằm viện dài ngày. Được gặp người làng mình trong hoàn cảnh này ngậm ngùi chảy nước mắt. Tôi nắm chặt bàn tay còn lại của anh: Nếu được ra Bắc anh nhắn với mẹ và em gái em là em vẫn khỏe, đang chiến đấu và chưa biết khi nào về.

以下是您提供的越南語文本的中文翻譯:


16.

崑嵩戰役結束後,我被選派去B3軍政學校學習。整個營只有四個人被挑選去上學。這四個人都是「動作快、理解快、靈活能幹」。

我們從部隊出發,一路問路前往學校。雨季時,路兩旁有很多東西可以吃,新鮮的嫩竹筍特別多。走了三天,我們才找到學校的所在地。

軍政三校設在柬埔寨境內。很多人稱它為「泥沼軍官學校」,因為那裡的森林全是泥濘地。從學校要去其他部隊,就得走「猴子橋」(一種簡易吊橋)。那裡的水是紅褐色的酸性水,既不能洗,也不能直接涉水而過。

我們這一批學員來的那個月,天天只能靠木薯充飢。因此這裡還有個別名叫「木薯葉軍官」。

我被分到C3班,也就是培訓排長的班級。在班上,我是年紀最小、體格也最瘦小的一個。

來到這裡的七天裡,我每天都得背子彈、背木薯,還沒吃上一頓像樣的飯,住的地方也只是躲在地洞裡,穿的衣服又破又爛,艱苦程度與前線無異。

「我要回部隊了。」我對一位同鄉、在學校當教員的大哥說。

「為什麼?」
「我以為上學是件舒服的事,沒想到這麼苦,還不如回戰場打仗,至少還有點用處。」

他說晚上帶吊床來他那邊,聊聊心事。

晚上,我去了他那裡。

他說:「你別以為留在前線就進步快,而來這裡上學就是吃苦。」

我說:「我也不是為了升遷什麼的,我只希望這場戰役快點結束,好回家。出來太久了。」

他說:「我啊,從1962年就出來了,十多年沒回家了。進來打了幾年仗,後來學校成立了,我就成了第一批學員。畢業後就留下來當教員。」

「跟你說,這裡好就好在能避開炸彈和炮火。平時工作就是上山種田搞生產,隔幾天上一次軍事課、政治課,學些政策和歷史。」

「聽哥一句話,能留在學校一天就多一天。能躲一天戰火就多一天。多少人想往後方調都調不走。我們有機會來上學,卻還想回前線拿槍。」

「你啊,戰爭雖然殘酷,但只要方式對了,我們還是可以保住自己。」

聽了他的分析,我的頭腦清晰了一些。原本有幾句想反駁的話,但一想自己是晚輩,還是安靜聽著吧。比如我想問他:「那那些還在前線守哨的戰友怎麼辦?我們常說『守哨就是等死』,我自己也好多次以為死定了。」

他突然打斷我的思緒:「你現在缺什麼,我幫你?」

我說:「我什麼都缺。連紙筆都沒有,肚子總是餓。」

一個月後,他被調上去了,負責更高層的教學工作。我們就再沒見過。後來我回家鄉,才知道他已經退休,官階還不低。


如果您還有其他段落需要翻譯,或需要修改語氣風格(如文學性更強、或更正式),請隨時告訴我。


16.

Sau chiến dịch Kon Tum tôi được đi học trường Quân chính B3. Cả tiểu đoàn chỉ có bốn người được lựa chọn đi học. Bốn người “có tác phong nhanh, nhận thức nhanh và tháo vát”.

Từ đon vị chúng tôi hỏi thăm đường về trường. Mùa mưa hai bên đường có nhiều thứ để ăn. Măng tưoi non rất nhiều. Đi ba ngày thì chúng tôi tìm được đến trường.

Trường Quân chính 3 đóng trên đất Campuchia. Nhiều người gọi là trường sĩ quan cầu lầy vì ở noi này rừng toàn lầy lội. Từ trường đến các đon vị bạn phải đi cầu khỉ. Nước phèn đỏ quạch. Không rửa, không lội được.

Học viên đợt chúng tôi đến cả tháng phải ăn sắn trừ bữa. Thế nên còn có tên gọi là sĩ quan lá sắn.

Tôi vào lớp C3, tức là lớp đào tạo trung đội trưởng. Trong lớp tôi trẻ tuổi nhất, và cũng nhỏ bé nhất.

Bảy ngày đến đây cả bảy ngày tôi phải đi gùi đạn, gùi sắn, chưa được ăn bữa cơm nào, chỗ ở cũng là chui xuống hầm, quần áo vẫn rách nát. Thiếu thốn không khác gì ngoài tiền tuyến.

- Em về đơn vị đây. - Tôi nói với một người anh cùng quê là giáo viên của trường.

Sao vậy?
Em tưởng đi học sung sướng chứ khổ thế này thà ở ngoài chiến trường đánh còn có ích hơn.

Anh hẹn tối mang võng sang chỗ anh rồi trò chuyện tâm sự.

Tối, tôi sang bên chỗ anh.

Em đừng nghĩ về tuyến trước nhanh tiến hơn hay ở đây đi học là khổ.
Em chẳng nghĩ gì nhanh tiến chậm tiến. Em chỉ mong hết chiến dịch để về. Đi lâu quá rồi.
Anh đây này, đi từ năm sáu hai, hơn mười năm rồi chưa về nhà.

Vào đây đánh nhau vài năm, người ta tổ chức trường này thì anh là thế hệ học viên đầu tiên. Học xong anh ở lại làm cán bộ khung.

Nói cho em biết điều này, ở đây có cái hay là tránh được bom đạn.

Công việc là đi làm nương làm rẫy, tăng gia sản xuất, vài ngày lại đi học quân sự, học chính trị, tiếp thu thêm các đường lối chính trị, các vấn đề lịch sử.

Em nghe anh, cứ ở lại trường được ngày nào hay ngày đó. Tránh được bom đạn ngày nào hay ngày đó. Bao nhiêu người đang tìm cách để lùi dần ra tuyến sau mà không được. Mình được đi học lại muốn về cầm súng.

Em ạ, chiến tranh ác liệt nhưng ta có cách ta vẫn giữ được mình.

Nghe anh phân tích đầu óc tôi sáng tỏ ra đôi chút. Có đôi câu muốn nói lại nhưng nghĩ mình bậc em tốt nhất lẳng lặng mà nghe. Ví dụ như tôi muốn hỏi anh: Thế những người đang giữ chốt trong kia là sao anh? Bọn em nói với câu chốt là chét, lên chốt là lên chỗ chết. Em đã bao nhiêu phen tưởng chết ở trong chốt rồi.

Giờ em thiếu gì để anh giúp? - Anh cắt ngang suy nghĩ tôi.
Em giờ cái gì cũng thiếu. Bút giấy cũng không có. Bụng khi nào cũng đói.

Một tháng sau anh chuyển lên trên dạy. Chúng tôi không còn gặp nhau. Sau này về quê tôi biết anh đã nghỉ hưu, cấp bậc cao.

以下是您提供的越南語第17段的完整中文翻譯:


17.

這是第43場戰鬥。

清晨五點,營部已經開火,我們的排負責衝鋒破口。我大喊著讓所有人從戰壕裡衝出來,直奔敵軍據點。

從軍校畢業後,我被派任突擊排排長,要上前線據點去駐守。

戰鬥中我一邊打,一邊觀察弟兄們的情況。

Huỳnh和Quý兩人掌管著M79榴彈發射器,是我們排的主力火力。但這時他們兩人還在壕溝裡折騰。我跑進去看。

「報告,同志Quý受傷了。」

「哪裡受傷?」

「頭部。」

我掃了一眼,只見他額頭上有一塊乾血斑,看起來就像一隻蒼蠅停在額頭上。年輕人這點小傷算什麼?我一把抓住他衣領,把他從壕溝裡拖出來。

「想逃避是不是?你看前面弟兄死了一片了!」

Quý還是猶豫不前。

我甩了他一耳光,又踢了他一腳。

「快衝鋒,支援兄弟!」

Quý只好衝了出去。

我們奪下據點後回到壕溝休息。這才知道,Quý是真的受傷了——M79榴彈在壕溝口爆炸,彈片射進他額頭,卡在骨頭裡,因為血被堵住沒流出來,我才誤以為他沒事。

他被送往後方,先進了營部醫院,後來轉到師部醫院。聽說那塊彈片穿過了鬆質骨進入了硬骨層,醫生鑿了一公分深都還沒取出來。

我心中愧疚、自責。

部隊繼續往前推進,參加更大的戰役,我便再也沒有Quý的消息了。

後來我知道,Quý是1972年從河靜省奇英縣奇上社入伍的。

1976年戰後我回到家鄉,常常想去找這位老戰友,看看他的傷怎麼樣了、現在的生活如何,也想親口向他道歉。

兩百公里的距離,卻始終沒能成行。年復一年,一拖就是幾十年。這件往事成了我心中的重擔。

後來經人介紹,我聯絡上了兩位以前同連的弟兄,他們住在錦川縣,年紀與我相仿,但因我曾是連長,他們至今仍稱我為「大哥」。我託他們幫我到奇英打聽Quý的下落。

錦川離奇英看似不遠,可年年打聽,總是回覆:「還沒找到」。兩人都記得我交代的事,但說到底,也沒人真正花時間跑一趟田裡幫我找人。

後來有位在錦美的朋友在山裡放牛時丟了一頭牛,那頭牛跑到了奇英地界。他去找牛時,順便幫我完成了這個多年的心願。

原來Quý還活著,住在奇上社。

這下我可以放心去拜訪了。我急切地催促錦川那兩位老弟安排時間同行。但從我催他們到真的出發,又拖了快兩年。每次都因各種理由延遲。

我終於不再等待,決定自己動身。

一到村口,就遇見一個挑著擔子去割稻的年輕人,還有一個住在十公里外、正準備去魚塘工作的人。我下命令說必須走。割稻可以明天再割。他只好請人幫忙割,因為如果不快點收,怕被牛踐踏。

我們三人騎摩托車直奔奇英。

在12號公路三岔口停下詢問去奇上的路。一位女教師說:「跟我走吧。」她自稱是老師,我便問她認不認識一位叫Quý的傷殘軍人,她搖頭。到了奇上社,她便與我們分道揚鑣。

奇上一、奇上二,到處都有叫Quý的人。問路人也只是隨口一答就離開。

我們三人站在路邊等。一位青年騎車載著一位拄拐杖的老人,看起來像是退伍軍人。問一下果然就是。

老人告訴我們,在奇上一社有個叫Quý的二級傷殘軍人,腦部受過重創。他家在與廣平省交界的森林深處。

我們總算找到了。他兒子讓我們稍等,便騎車去接父親回來。

那是一棟簡陋的老屋。我們想看看牆上有沒有他年輕時的照片,但什麼都沒有。床上躺著的是他太太,據說長年患病。

Quý不認得我們三人是誰。

雖然不認得,但老戰友見面,還是得喝點酒再說。他兒子端出一籃鴨仔蛋和一箱啤酒。

鋪上草蓆,邊喝邊聊當年戰事。聊到第四或第五場戰鬥時,Quý才終於想起我是誰。原本還你你我我地稱呼著,

Quý突然改口叫我「首長」、「大哥」。

Quý說:「我也很內疚,當時兄弟們死傷一半了,我卻還抱著M79躲在壕溝裡支援。」

四十多年來,我們第一次能坐下來聊個痛快,話怎麼也說不完。直到凌晨三點,我們一起去溪邊洗澡。離他家半公里,有條從廣平流出的溪水。我們一個提手電,一個提煤油燈,來到溪邊脫光衣服,泡在水裡,彷彿又回到了當年還是士兵的日子,在崑嵩地區滿身紅泥、趁著取水順便洗衣服的時候。我們大喊、我們大笑,說自己是瘋子。溪邊的石頭,就像當年我幫戰死兄弟搓洗衣服的那塊。

我們笑著,卻止不住淚水。


如需整理成報導、小說體或文學體,我可以協助進一步潤飾。

17.

Trận đánh thứ bốn mưoi ba.

Tiểu đoàn đã nổ súng từ năm giờ sáng, mũi chúng tôi chịu trách nhiệm mở cửa. Tôi hô tất cả ra khỏi hầm, chạy thẳng vào đồn địch.

Ra trường tôi về làm trung đội trưởng trung đội mũi nhọn phải ra chốt tuyến đầu.

Tôi vừa đánh vừa quan sát anh em.

Anh Huỳnh và Quý đang giữ khẩu súng M79 là hỏa lực của trung đội. Sao giờ này hai người vẫn đang loay hoay trong hầm. Tôi chạy vào hầm.

- Báo cáo, đồng chí Quý bị thưong.

Bị ở đâu?
Bị ở đầu.

Nhìn lướt qua khuôn mặt Quý chỉ thấy có một vết máu khô giống như con ruồi đậu trên trán. Thanh niên khỏe mạnh bị thế nhằm nhò gì. Tôi cầm cổ áo Quý lôi ngay lên khỏi hầm.

Tính trốn hả. Anh em chết hàng loạt trên rồi kìa.

Quý vẫn chần chừ.

Tôi táng một bạt tai. Đạp tiếp vào đít.

- Xung phong mau để yểm trợ anh em.

Quý buộc phải lao ra.

Chiếm được chốt chúng tôi về hầm nghỉ. Lúc này tôi mới biết đúng là Quý bị một mảnh đạn M79 nổ trước cửa hầm găm vào trán. Mảnh đạn găm lại máu không chảy ra được nên tôi đã phớt lờ.

Quý được cho ra tuyến sau. Lên viện tiểu đoàn rồi viện sư đoàn. Mảnh đạn xuyên qua xương xốp vào xương cứng. Nghe nói phải đục sâu một phân vẫn chưa lấy ra được.

Tôi day dứt, ân hận.

Đơn vị tiếp tục phát triển về phía trước, lao vào các chiến dịch lớn, tôi không còn biết tin gì về Quý.

Thông tin vê Quý tôi năm được khi đó là ở xã Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh, nhập ngũ năm 1972.

Sau năm 1976 trở về quê tôi luôn nghĩ đến việc đi tìm người đồng đội cũ xem vết thương sau đó thế nào, cuộc sống hiện tại ra sao. Và nói với người ta lời xin lỗi.

Khoảng cách chừng hai trăm cây số vậy mà cũng khó khăn. Cứ lần lữa năm này qua năm khác rồi hàng chục năm vẫn chưa làm được. Hàng chục năm trong lòng tôi nặng nề chuyện cũ.

Qua người nọ người kia tôi liên lạc được với hai cậu cùng đại đội ở Cẩm Xuyên. Bằng tuổi nhau nhưng vì tôi là đại đội trưởng nên tới giờ họ vẫn gọi tôi là anh. Tôi nhờ họ sang bên Kỳ Anh tìm thông tin về Quý.

Cẩm Xuyên sang Kỳ Anh tưởng gần vậy mà cũng hết năm này tới năm kia tôi gọi đến cả hai đều trả lời vẫn chưa tìm được. Chuyện tôi nhờ cả hai đều ghi nhớ. Ghi nhớ vậy thôi chứ chưa ai một lần bỏ buổi ra đồng để làm việc đó cho tôi.

Người bạn ở Cẩm Mỹ thả trâu ở ngoài rừng bị lạc mất trâu. Con trâu đi lạc sang bên đất Kỳ Anh. Bạn sang đất Kỳ Anh dắt trâu về tiện thể thực hiện trách nhiệm thủ trưởng cũ giao.

Ông Quý vẫn còn sống, ở trên Kỳ Thượng.

Vậy là yên tâm đi thăm rồi. Tôi sốt ruột gọi cho hai người ở Cẩm Xuyên sắp xếp thời gian rồi cùng đi. Từ khi tôi giục giã cho tới khi đi được thời gian cũng phải tới hai năm. Lần nào cũng có lý do để trì hoãn.

Không chần chừ được nữa tôi quyết định lên đường.

Tôi đến đầu ngõ gặp một đứa đang gồng gánh ra đồng gặt lúa, một đứa ở cách đó chục cây số đang đi làm cá. Lệnh phải đi. Lúa không gặt hôm nay thì để mai. Cậu ta phải nhờ người đi gặt giúp bởi nếu không làm kịp sợ trâu bò phá.

Ba thằng lên xe máy vào Kỳ Anh.

Đến ngã ba đường 12 dừng lại hỏi thăm đường về Kỳ Thượng. Cô gái đi đường bảo các bác cứ theo em. Cô giới thiệu mình là cô giáo nên tôi hỏi có biết ông Quý là thương binh không cô lắc đầu. Đến xã Kỳ Thượng cô chào chúng tôi đi về hướng khác.

Kỳ Thượng 1 hay Kỳ Thượng 2. Kỳ Thượng nào cũng có người tên Quý. Người ta trả lời rồi đi tiếp.

Ba anh em đứng bên đường chờ. Một thanh niên chở ông già ngồi sau cầm nạng đoán chắc là thương binh. Giờ hỏi thăm là trúng rồi.

Ông già chỉ cho chúng tôi đi về Kỳ Thượng 1 có ông Quý thương binh loại 2 bị chấn thương sọ não. Ngôi nhà họ ở tít trong khu rừng giáp với Quảng Bình.

Chúng tôi tìm được đến nơi. Người con trai bảo các bác chờ rồi đi chở cha về.

Ngôi nhà cũ tạm bợ. Chúng tôi tìm xem có bức ảnh của thằng Quý hồi trẻ treo trên tường không nhưng không có. Nằm trên giường là người vợ của Quý nghe nói bà bị bệnh đã nhiều năm.

Ông Quý không nhận ra ba chúng tôi là ai.

Không nhận ra là ai nhưng bạn chiến đấu gặp nhau thì cứ phải nhậu đã. Con trai ông mang về một rổ trứng vịt lộn và một thùng bia.

Trải chiếu ra ngồi uống bia ôn chuyện chiến trường. Kể đến trận đánh thứ tư thứ năm gì đó ông Quý mới nhớ ra được tôi là ai. Đang ông ông tôi tôi

Quý đột ngột đổi xưng hô em và anh, em và thủ trưởng.

Quý nói, em thì lại ân hận vì anh em chết bị thương gần nửa rồi mà mình vẫn ôm cây M79 yểm trợ ở trong hầm.

Lần đầu tiên sau hơn bốn mươi năm anh em mới được ngồi với nhau chuyện không sao dứt được. Tới ba giờ sáng rủ nhau ra khe tắm. Cách nhà Quý nửa cây số có một con suối chảy từ trong Quảng Bình ra. Thằng dọi đèn pin thằng cầm đèn hoa kỳ ra suối cởi hết áo quần đằm mình giữa khe tưởng mình vẫn là thằng lính năm nào được dịp ra suối lấy nước tranh thủ nhúng ướt áo quần rũ sạch bùn đỏ cả tháng lăn lê hầm hào ở Kon Tum. Chúng tôi hét, chúng tôi cười, chúng tôi bảo mình là những thằng điên. Hai bờ khe là bãi đá hệt như bãi đá ngày xưa tôi ngồi kỳ cọ bộ quần áo của đồng đội đã hy sinh. Cười cười mà vẫn không ngăn được hàng nước mắt.


以下是第18段的中文翻譯:


18.

雨季不能發動大規模作戰,部隊集中於穩固據點,配合進行小規模突擊。

1974年6月6日晚上七點,我被召到連部接受任務:明天一早,我們的中隊必須抵達5B路段,埋伏擊打敵軍增援部隊。

當時已是晚上九點,從連部返回我的中隊駐守地有一公里多,全是濃密的叢林,沒有燈、沒有火把,黑漆漆一片。回到據點時,有人正在站崗,有人還醒著。我立即召集所有人起床準備戰鬥,晚上十一點整隊出發。

除了我,沒人知道路線。我也只是看了地圖,快速記在腦中。這片區域我們從未踏足,天氣變化無常,敵情多變,我們的據點也經常變動。我走在前頭,後面跟著十八名戰士。翻過兩座山丘,涉過兩條溪谷,到達目標地點時是凌晨三點。弟兄們開始挖掘戰壕、架設迫擊炮底座。我和三位排長觀察地形,為各排、每個人分配任務。提醒大家不可入睡,要將耳朵和眼睛朝向各方偵聽。這時應該已是清晨五點多。我巡查完火力排,靠著一棵大樹抱著槍沉沉睡去。

士兵的直覺讓我迅速驚醒。天已大亮。一睜眼就覺得不對勁——陣地太空曠了。弟兄們躲在野草叢裡,只遮住頭部,腳全露在外頭。敵軍據點離我們不到半公里,只要敵人一蹲下就能發現我們,隊形立刻就會被殲滅。我心裡慌了,但面上不敢表現出來,怕弟兄們察覺。

中午九點,伙房兵終於將飯送到。我接過飯。身上背著一把AK槍、三個彈匣共120發子彈、四顆手榴彈、一把刺刀、一壺水,還有所有人的飯。我匍匐前進,把飯逐一送到每人手裡。就在此時,我聽到汽車聲。我連忙爬回去叫醒正在打鼾的排長阿祥。等得太久,他竟然睡著了,我搖了半天才叫醒他。

一輛CMC軍車停下,車上的士兵全跳下,直奔我們陣地方向而來,完全如計劃所料。我首先開火,並大喊「衝鋒!」同時喊話要求敵人投降。

戰鬥結束後,大家都有點恍惚。我們立刻將俘虜押走、撤離陣地。走入森林深處後才綁起俘虜,稍作休息。從前一晚接到任務開始,連中午飯都還沒吃。所幸沒人受傷,彈藥耗費不多,還俘虜了敵軍。我因此被稱為當年的「優秀中隊指揮官」。

三天後,我踩到敵人先前埋的地雷。野草和植物已覆蓋其上,完全沒被發現。這是我第三次重傷,進了醫院躺了三個月。出院時腳步還不穩,就接到命令重新上山駐守。拖著跛腳爬陡峭岩山,痛苦不堪。

高地白天日照炙熱,晚上寒風刺骨。每人只有一套破舊長袖衣服,沒有棉被也沒蚊帳。

守哨時緊張焦躁,吃不下也睡不好。神經緊繃如弦。伙房兵送上飯時,大家只能吃下一碗。山腳下是敵軍步兵,山頂上每隔十五分鐘就有炮彈飛來,炸彈無規律投放。

剩下的飯,我叫弟兄們拿去陰涼處晾乾,準備下次再吃。不敢曝曬在太陽下,怕被敵人發現。晚上,一群老鼠來偷吃這些飯。我做了陷阱,抓到十幾隻大老鼠。我問大家要不要吃。大家聽說老鼠肉能吃,都想試試。

老鼠被烤過後宰殺、剁塊用油煎。那油是我跟伙房兵討來的。弟兄們興奮地等著品嚐。

隔天一早我巡視哨所。風從第二哨口吹來,阿平和阿治站崗時說:「我們聞到像人肉腐臭味。」我停下腳步。的確是很熟悉的腐臭味。

我沿著倒伏的茅草走了十公尺,看到滿地老鼠糞,旁邊躺著五具腐爛的屍體,只剩頭骨與手腳的輪廓。老鼠咬過的痕跡還很新。

當初交接據點時,友軍就提過:兩週前他們曾殲滅一個敵軍巡邏小隊,屍體就曝屍於此。他們怕臭,只簡單掩埋。結果被老鼠翻出來。

新兵見到這一幕都感到反胃,有人當場嘔吐。但只要在叢林裡打過十場仗,就什麼都見怪不怪了。


18.

Mùa mưa không đánh lớn. Tập trung bám chốt cho vững và kết hợp đánh nhỏ lẻ.

Bảy giờ tối ngày 6 tháng 6 năm 1974 tôi được gọi lên ban chỉ huy đại đội nhận nhiệm vụ sáng ngày mai trung đội phải có mặt tại đoạn đường 5B phục kích đánh địch đi chi viện.

Lúc này là chín giờ đêm, từ ban chỉ huy về trung đội tôi chốt hơn một cây số. Đường rừng rậm, không đèn không đuốc, trời tối thui. Về đến nơi, anh em người đang gác người đang thức. Tôi gọi tất cả dậy chuẩn bị chiến đấu. Mười một giờ đêm xuất kích.

Ngoài tôi ra không ai biết hướng đi. Tôi cũng mới chỉ biết qua sơ đồ, ghi nhanh trong trí nhớ. Chưa ai đặt chân đến vùng đất này. Mưa nắng thất thường tình hình địch thay đổi nên địa điểm chúng tôi cũng di chuyển liên tục. Tôi đi trước, theo sau mười tám anh em. Vượt qua hai ngọn đồi, hai khe suối. Đến đúng địa điểm là ba giờ sáng. Anh em đào hầm, lắp đế cối. Tôi cùng ba tiểu đội trưởng quan sát địa hình, lên phương án đánh địch cho từng tiểu đội và từng người. Nhắc anh em không được ngủ. Phải đặt tai, mắt vào các hướng. Lúc này chắc đã hơn năm giờ sáng. Kiểm tra tiểu đội hỏa lực xong tôi ôm súng dựa vào gốc cây to ngủ thiếp đi.

Đôi tai lính nhắc tôi tỉnh dậy rất nhanh sau đó. Trời đã sáng. Vừa mở mắt đã thấy choáng. Trận địa quá trống. Anh em ẩn nấp sau lùm cây mua cây dại che được phần đầu thì nhoài ra ngoài phần chân. Đồn địch cách nơi chúng tôi chưa tới nửa cây số. Chỉ cần ngồi xổm là địch phát hiện ra và đội hình bị xơi gọn ngay tức thì. Tôi mất bình tĩnh nhưng không để lộ ra ngoài cho anh em biết.

Chín giờ trưa anh nuôi cũng đem cơm đến được tới nơi. Tôi nhận cơm từ anh nuôi. Trên người một khẩu AK, ba băng đạn 120 viên, bốn quả lựu đạn, dao găm, bình nước và toàn bộ số cơm của anh em. Tôi trườn đi mang cơm cho từng người. Phát hiện ra tiếng xe ô tô. Tôi trườn lại chỗ anh Hường tiểu đội trưởng đang ngáy ầm ĩ. Chờ địch lâu quá anh đã ngủ say, tôi phải lay mãi anh mới tỉnh.

Chiếc xe CMC dừng lại, toàn bộ lính trên xe nhảy xuống, đi thẳng tới trước mặt đội hình chúng tôi đã bố trí. Đúng như kế hoạch. Tiếng súng tôi phát hỏa. Tôi hô xung phong và kêu gọi địch đầu hàng.

Trận đánh xong rồi mà anh em ai cũng như mất thăng bằng. Giải tù binh và rời khỏi trận địa ngay. Đi khuất vào rừng một lúc mới trói tù binh và nghỉ. Nhận nhiệm vụ bất ngờ từ đêm qua, cơm trưa anh nuôi mang đến chưa kịp ăn. Anh em không ai bị thương, đạn tốn ít, bắt được địch làm tù binh. Tôi được ca ngợi là người chỉ huy trung đội giỏi của năm.

Ba ngày hôm sau tôi giẫm phải quả mìn địch cài sẵn lúc trước. Cỏ tranh cây cối đã mọc che nên không phát hiện ra. Đây là lần thứ ba bị thương nặng. Phải vào viện nằm ba tháng. Ra viện, bước đi chưa vững đã phải nhận nhiệm vụ lên chốt. Chân tập tễnh leo núi đá dốc khó chịu vô cùng.

Cao điểm ngày nắng ấm đêm thì rét buốt. Quần áo mỗi người được một bộ dài tay rách tả tơi. Không chăn không màn.

Ngồi trên chốt căng thẳng, bứt rứt. Ăn không được ngủ không yên. Thần kinh căng như dây đàn. Cơm anh nuôi đưa cơm lên mỗi người chỉ ăn được một bát. Dưới chân đồi địch bộ binh. Trên đầu pháo mười lăm phút lại nã. Bom bỏ không theo quy luật nào.

Cơm thừa, tôi bảo anh em mang đi phơi để dành ăn vào lần sau. Phơi trong bóng râm chứ không dám phơi lộ liễu ngoài trời nắng. Đêm đến một đàn chuột tới ăn phần cơm. Tôi làm bẫy bắt được chục con chuột to. Hỏi anh em có ăn thịt chuột không. Đã từng nghe thịt chuột ăn được nên ai cũng muốn thử.

Những con chuột được thui lên, làm thịt, chặt miếng rán mỡ. Mỡ tôi xin được từ anh nuôi đại đội. Anh em hào hứng ngồi chờ thưởng thức.

Sáng sớm mai tôi đi ra kiểm tra vọng gác. Gió thổi vào vọng gác thứ hai. Bình và Trị đang đứng chốt nói: Bọn em thấy thối mùi thịt người. Tôi dừng lại. Đúng là mùi thối rất quen.

Tôi lần theo lối cỏ tranh ngã rạp, cách hào mười mét nhìn thấy rất nhiều phân chuột. Và cạnh đấy là năm xác chết trơ ra đầu lâu và hình thù những ngón tay ngón chân. Dấu chuột moi còn rất mới.

Hôm bàn giao chốt đơn vị bạn có nói cách đây hai tuần họ nổ súng diệt một tiểu đội địch đi tuần tra. Xác địch phơi đấy, đơn vị sợ thối chỉ lấp sơ sài. Những con chuột đã sục tìm.

Lính mới gặp cảnh vậy thấy ghê. Vài người nôn ọe. Ở rừng, đánh chục trận trở lên thì quen hết.

以下是第19段的中文翻譯:


19.

部隊轉移到一個秘密地點,靠近14號公路。我們正在挖掘掩體時,聽到幹部說今天是除夕(三十日)。幹部會知道,是因為戰區補給給他們一本小日曆。士兵們則完全不知道日期。在這片地區,沒有平民、沒有交通聯絡,只有敵人和砲火。

掩體挖好後,大家又挖了一個半地穴半地上的坑道,用來作為春節臨時會場。

一張桌子是由幾根小木頭拼成的。一根多枝的大樹枝被用來插上“花”。胡志明主席的遺像是那本日曆的封面。點燃的乾柴枝充當香火。生水當作酒。一小盤鹽放在旁邊,象徵食物。

節目是「民主採花」(即抽籤式表演節目)。

我打開紙條:同志玉與同志典要笑出三十六種男人的笑聲。

兩人互相握手,開始笑。

哈哈、嘻嘻、呵呵、嘿嘿、呼呼……才演到第六種笑,大家已經笑到東倒西歪。情緒高漲,我們笑得停不下來。主持人已經數不清到底演到第幾種了。

突然,主持人的臉嚴肅起來:「不准笑了!」
「哈哈哈哈呵呵呵哈哈哈哈哈哈哈——」我完全止不住,繼續狂笑,「呼呼呼呼呼喔喔……」
有人衝過來摀住我的嘴。火把被吹滅。敵機空襲警報響起。

十分鐘過去。主持人說:「我們繼續吧,剛剛那位同志笑到第幾種了?」

一片寂靜。

接著,是哭聲。有人哭著回憶家中與母親一起倒數跨年的那一刻。有人哭,是想念已經死去的朋友。

「誰哭我就處分誰!」主持人大喊。
但已經沒人理會他的話了。

就這樣,我們在中部高原的山林中,度過了第四個戰地春節。


19.

Đơn vị chuyển đến một khu vực bí mật, gần đường 14. Đang đào hầm trú ẩn thì nghe cán bộ nói hôm nay là ngày ba mươi tết. Cán bộ biết vì họ được mặt trận bổ sung cho cuốn lịch tay. Lính thì không biết gì ngày tháng. Khu vực này không có dân, không giao liên, chỉ có địch và bom đạn.

Đào xong hầm trú ẩn anh em đào thêm hầm nửa chìm nửa nổi làm hội trường đón tết.

Chiếc bàn là những cây gỗ nhỏ ghép lại. Một cành cây to nhiều cành để gắn hoa. Ảnh thờ Bác Hồ là trang đầu cuốn lịch. Que củi khô đốt lên làm hương. Nước lã làm rượu. Một đĩa muối đặt bên cạnh là tượng trưng thức ăn.

Tiết mục hái hoa dân chủ.

Tôi mở mảnh giấy ra. Đồng chí Ngọc và đồng chí Điển phải cười đủ 36 điệu cười đàn ông.

Hai người bắt tay nhau và cười.

Ha ha hi hi hô hô hê hê hơ hơ... Mới được sáu điệu mà anh em đã cười nghiêng ngả. Phấn khích, chúng tôi cười không dừng được. Chủ tọa không đếm được bao nhiêu là điệu nữa.

Bỗng khuôn mặt chủ tọa nghiêm lại. Không được cười nữa. Ha ha ha hô hô hô hahahahahahahahhaha. Tôi không thể nào nào nín được nữa hôhôhôhôhooo.... Ai đó bịt mồm tôi lại. Đuốc tắt. Báo động máy bay địch.

Mười phút trôi qua. Tiếp tục anh em. Đồng chí nãy cười tới điệu thứ mấy rồi rồi nhỉ.

Lặng im.

Rồi tiếng khóc. Tiếng khóc nhớ phút giây đón giao thừa ở nhà với mẹ. Tiếng khóc vì nhớ những người bạn đã chết.

Đứa nào khóc tao kỷ luật. Chẳng ai để ý lời chủ tọa nữa.

Thế là xong cái tết thứ tư ở núi rừng Tây Nguyên.


以下是第20段的中文翻譯:


20.

第320師正追擊並阻擊敵軍,防止其經由7號公路從中部高原撤退至綏和(Tuy Hòa)。

地雷炸毀了橋樑,敵人無法通過,只能被迫後撤。逃難的民眾也因無路可走而被迫返回。但敵人沒有後退,民眾也沒有回頭。數以百計、數以千計的車輛擁擠在道路上,人群一片混亂。被擊中的卡車起火燃燒,屍體壓在車下。兒童哭喊著找不到家人,四處是絕望的尖叫。

群眾成群結隊逃入森林,試圖向平原方向逃命。他們逃離越共。因為留下來,就會被越共殘害,照樣會死。越共是惡獸,會剖腹挖肝。人民就是這樣被宣傳的。

他們逃離越共,逃向7號公路,逃向平原,逃向河口與大海。逃命,尋找生路。

死亡人數無法統計。有人餓死、渴死、被流彈擊中而死,被炸彈炸死。

屍體曝曬在陽光下。有的被坦克輾碎,散發惡臭。民眾因缺水而不敢下溪取水,怕迷路。埃地族人拿水出來換金子,一壺水換一錢黃金。

一個沾滿泥巴的小孩。我把我的水壺遞給他。可我得繼續趕路,跟上作戰進度。

我們在夜晚通過富本(Phú Bổn)和蓋橋(cầu Gãi)。那一週大家飢渴交加,看到水都很激動。俯身直接喝水,用鋼盔舀水大口吞下,趕快裝滿水壺。

隔天早上,我們看見昨晚喝水的地方,滿是浮起來的屍體,堆積在河岸上。繼續前進,到達靠近芒芒坡(dốc Mồng Mồng)的37號運河時,屍體也是一樣地漂浮滿水面。

昨天,我們決定釋放20名在前一天傍晚阻擊第45師戰鬥中生擒的俘虜。我們命令他們脫下軍服、扔掉武器,然後朝邦美蜀(Buôn Mê Thuột)方向走去。

「請救救我太太。」

一名男子懇求地看著我身邊的胡英(Huỳnh)同志,他是連隊的衛生兵。肩上背著一個有紅十字標誌的藥包。

那名男子正扶著一位婦女。他們已經沒有力氣再逃了。婦人癱軟地靠著丈夫,褲子已被浸濕。

他們一起把那名婦人帶進森林邊緣,離開了人群。她羊水破了,大出血。她一直努力追著丈夫逃命。

「她流產了。」胡英說。

他幫她打止血針,並一步步設法挽救她的性命。

那名男子脫下軍服,掏出身上藏的手槍,扔到遠處。

昨天還互相拿槍指著對方的人,如今卻在這種情況下一起坐著。婦人尚未恢復,胡英也無法離開。他已經與部隊脫隊很遠。

「那時你們說了些什麼?」
隔天晚上吃飯時,志進(Tiến)問我。當時我們部隊正在森林中紮營,等待命令。

胡英還來不及回答,空中的子彈灑落下來,正好打中我們的飯桌。志進握著筷子的手臂被炸斷了。


20.

Sư đoàn 320 truy kích và đánh chặn địch rút chạy khỏi Tây Nguyên về Tuy Hòa theo đường 7.

Mìn nổ sập cầu. Địch không qua được buộc phải lùi lại. Người dân di tản không còn đường đi buộc phải quay về. Nhưng địch không lùi lại và dân cũng không quay về. Đoàn xe hàng năm hàng bảy dồn ứ lại. Dòng người hỗn loạn. Những chiếc xe trúng bạn bốc cháy. Xác người nằm dưới xác xe. Tiếng trẻ thơ khóc lạc gia đình. Tiếng gào thét tuyệt vọng.

Dân kéo nhau từng toán chạy vào rừng tìm hướng về đồng bằng. Chạy thoát Việt cộng. Ở lại Việt cộng hãm hại rồi cũng chết. Việt cộng là con thú ác. Việt cộng sẽ mổ bụng moi gan. Người dân đã được tuyên truyền như vậy.

Chạy thoát Việt cộng. Chạy ra đường bảy chạy về đồng bằng, chạy về cửa sông chạy ra cửa biển. Chạy đi tìm cửa sống.

Số người chết không thể tính được. Chết đói chết khát chết vì đạn lạc vì chết trúng bom.

Xác người phơi nắng. Xác người bị xe tăng nghiền nát bốc mùi. Người dân khát nước không biết hoặc không dám đi xuống suối tìm nước vì sợ lạc. Người Ê đê đưa nước ra đổi vàng. Một bù nước đổi một chỉ vàng.

Một em bé lấm lem bùn đất. Còn bi đông nước tôi đưa cho em. Tôi phải chạy theo đà phát triển của chiến dịch.

Vượt qua Phú Bổn cầu Gãi vào ban đêm. Cả tuần đói khát mệt lử gặp nước ai cũng mừng. Gục mặt xuống mặt nước. Lấy mũ cối múc lên tu ừng ực. Nhanh tay đóng đầy những bi đông.

Buổi sáng mai ra nhìn chỗ mình đêm qua uống nước xác chết ngập tràn xác chết mắc lại bờ kè. Đi tiếp đến đến con kênh 37 gần dốc Mồng Mồng xác chết cũng nổi đầy như vậy.

Hôm qua chúng tôi quyết định thả 20 tù binh bắt sống từ trận đánh chặn binh đoàn 45 buổi chiều hôm trước. Bảo họ cởi bỏ quân phục, vứt súng rồi đi về hướng Buôn Mê Thuột.

- Xin cứu giúp vợ tôi.

Người đàn ông nhìn anh Huỳnh cầu khẩn. Anh Huỳnh y tá đại đội theo sát bên tôi. Vai anh đeo cái xắc có hình chữ thập.

Người đàn ông đang dìu người đàn bà. Họ không còn sức để chạy nữa. Người đàn bà đã lả đi bên người đàn ông, quần chị ướt sũng.

Họ cùng đưa người phụ nữ vào bìa rừng, tách khỏi đám đông. Chị bị vỡ ối, băng huyết. Chị đã cố chạy theo chồng.

Cô ấy bị sẩy rồi. Anh Huỳnh nói.

Anh tiêm thuốc cầm máu. Tiến hành từng bước giữ mạng sống cho người mẹ.

Người chồng trút bỏ bộ quần áo và rút khẩu súng đang trong người ném ra xa.

Hai người hôm qua còn chĩa súng vào mặt giờ ngồi với nhau trong tình cảnh này. Người vợ chưa hồi sức anh Huỳnh vẫn chưa thể bỏ đi. Anh đã bị lùi xa đơn vị một quãng dài.

Chúng mày đã nói với nhau chuyện gì khi đó?

Tối hôm sau đang ngồi ăn cơm anh Tiến hỏi. Đơn vị chúng tôi lúc này đang trú lại tại một cánh rừng chờ lệnh.

Anh Huỳnh chưa kịp trả lời. Đạn trên trời bắn tung tóe xuống trúng giữa mâm cơm. Anh Tiến bị đứt cánh tay đang cầm đũa.


以下是第21段的中文翻譯:


21.

我們第一晚抵達綏和(Tuy Hòa),住在當地一戶人家中。那是一個有女兒正在參加地方部隊的家庭。我們安心地說:「這是革命家庭。」

入夜後,我打開 National 收音機讓全家一起聽。老伯聽到河內廣播報導這次作戰行動時,興奮得站起來大聲說:「對,這麼說就對了!」

半夜我睡得正熟,忽然感到癢癢的,一睜開眼,發現那位母親正拿著煤油燈,一個一個地摸我們的手腳。我驚醒問:「阿姨,妳在做什麼?」她也嚇了一跳,說她聽人家宣傳說「七個共產黨解放軍爬上一根木瓜樹枝也不會折」,所以來看看我們的四肢,是不是真的那麼輕。

「七個共產黨軍人爬上木瓜樹枝也不會折」——這句話我們以前就聽過,只當作笑話,大家閒聊時說著玩。沒想到今晚在綏和真的從一位母親口中聽到,才知道這類謠言是真的被宣傳出去的。

第二天下午我們到出海口洗澡,有一群小孩和十歲出頭的少女跟著我們跑。我們不好意思,只好不洗。我拉著一個女孩的手問:「妳們跟過來做什麼?」小女孩說:「要看共產黨軍人的尾巴,因為你們像猴子一樣有毛、有尾巴。」

這時我們才知道,當地民眾被灌輸了很多對北方解放軍非常可怕的宣傳。很多人不敢正眼看我們,一旦我們問話,他們就低著頭小聲回答「是、是」。

營部交代我們包圍一座村莊。各個排隊分別駐守在三叉路與四叉路口。敵軍若混進村裡,若無法逃脫,就會脫掉軍服、穿上民眾的衣服混淆視聽。

村民煮飯,準備了很多好吃的給我們。路過田野時,看到有兩位大姊挑著沉重的擔子跟在後頭。原來她們挑著米粉卷(bánh cuốn),要拿來給我們當晚餐。

晚上吃的是白米飯與筍子燉鴨。各家出米、出食材,也有些人拿來酒與啤酒。部隊長官提醒我們:「在這種情況下,最好還是得保持警惕。」

啤酒和酒都擺出來了,但我們不敢喝,怕敵軍偽裝成平民在裡面下毒。


21.

Đêm đầu tiên đến Tuy Hòa. Chúng tôi ngủ ở nhà dân. Đó là gia đình có người con gái đang đi bộ đội ở địa phương. Yên tâm rồi, gia đình cách mạng. Chúng tôi nói với nhau.

Đêm xuống tôi mở đài National cho cả nhà nghe. Ông già nghe đài Hà Nội đang đưa tin chiến dịch. Phấn khích quá ông đứng dậy nói to. Đúng, nói thế là đúng.

Nửa đêm đang ngủ say tôi nghe nhột. Mở mắt ra thấy bà mẹ đang cầm cây đèn hoa kỳ. Bà nắn tay chân từng người. Tôi mở mắt ra, giật mình. Má, má làm gì thế. Bà cũng giật mình. Má nghe họ tuyên truyền rằng bảy thằng bộ đội cộng sản leo lên một cành đu đủ không gãy nên má đi xem chân cẳng bộ đội thế nào, có đúng như thế không.

“Bảy thằng bộ đội cộng sản trèo lên cành đu đủ không gãy” - câu đó chúng tôi từng nghe nhưng cứ nghĩ là chuyện tếu anh em lượm đâu về kể cho vui. Đêm nay nghe bà mẹ Tuy Hòa nói tôi mới biết là có thật.

Đến chiều hôm sau chúng tôi ra cửa biển tắm thì có một đàn con nít và các bé gái tầm cỡ mười mười ba mười bốn tuổi chạy theo. Chúng tôi ngượng không tắm được. Tôi nắm tay một cô bé, hỏi chạy đi theo làm gì. Cô bé nói rằng, đi xem đuôi bộ đội cộng sản, bộ đội cộng sản có lông và đuôi giống khỉ.

Bấy giờ chúng tôi mới biết người dân ở trong này được tuyên truyền những thông tin rất đáng sợ về bộ đội ngoài Bắc vào. Nhiều người không dám nhìn thẳng mặt bộ đội. Họ cúi đầu và dạ thưa mỗi khi bộ đội hỏi câu gì.

Tiểu đoàn giao nhiệm vụ chúng tôi vây một ngôi làng. Các trung đội chốt chặt tại các ngã ba, ngã tư. Địch vào làng nếu không lẩn trốn được đều cất súng và lấy đồ của dân mặc.

Người dân nấu cơm và chuẩn bị nhiều đồ ăn ngon cho bộ đội. Đi qua cánh đồng thấy hai chị gánh nặng đi theo. Các chị gánh bánh cuốn mang cho bộ đội ăn bữa chiều.

Buổi tối có cơm gạo trắng, vịt nấu măng. Nhà góp gạo nhà góp thức ăn. Có nhà mang rượu bia đến. Thủ trưởng nhắc nhở anh em, trong hoàn cảnh như thế này, tốt nhất chúng ta cứ phải đề phòng.

Bia, rượu dọn ra chúng tôi không dám uống vì sợ địch cải trang thành người dân bỏ thuốc độc.


22


部隊上車前往西寧,再徒步行軍下到古芝。當地百姓秘密地引導整個師部隊進入村莊。身處敵陣心臟地帶,當地民眾卻依然如常生活。夜裡,機動電影隊在樹蔭下唱歌表演。中午,戰士們在芒果樹間掛起吊床搖曳而眠。

上級命令第320師攻打同維基地,那是通往西貢首都的門戶。

戰役前夜,女房東小聲對我說:這是共產黨第九次攻打同維了。前幾年每次開打幾小時就被奪回,最久也不過撐過一天一夜。共產黨在那兒犧牲太多了。這一帶的百姓早已麻木,每次一打起仗就跑去撿屍體財物。

4月28日早上7點。排級以上幹部到營部集合,在沙盤上接收任務。沙盤以泥土製成,設於田野中央的空地。整個同維基地被縮小至約30公尺,包括:外圈120個碉堡,17道鐵絲網,兩個主要出入口,四條交通壕圍繞,中間鋪有柏油道路供敵人通行倉庫,還有四個居民區彼此相距900公尺,敵軍師部就駐守在正中央。

第二連為主攻部隊,負責打開突破口。

我們排為主攻排,任務是將旗幟插上敵軍師部的地堡頂端。

今天我決定穿上新衣服。我有預感,這可能是最後一場戰鬥。

最後一場戰鬥?我會死?還是這戰役結束就能回家?誰知道呢。我只覺得前方將是一場慘烈激戰。

詩人蘇友曾到西原見戰士們衣衫襤褸、污穢不堪,回北方後建議後勤部給每位戰士配一套軍服。這事我們是從報紙上知道的。說是一套,但實際上每人只分到一件。

有人有上衣,沒褲子。我拿到的是一件上衣。我稱它為「詩人之衣」。

今天我穿著「詩人之衣」,踏上這場決戰。

4月28日下午三點,出擊命令下達。

天空仿佛即將降下暴雨,黑壓壓的全是炮火煙霧。三小時後,我軍火箭彷彿火炬般直衝敵營。敵機投下照明彈與炸彈,攻擊我軍開火方向。敵遠程火炮反擊我軍剛發射的區域。雙方像是在比誰的炮火更猛、誰的膽子更大。

晚上九點,我們潛入敵軍基地附近的橡膠林,被安排伏擊在教堂花園角落。穿過教堂便是14號公路,距第一道鐵絲網15公尺,距第二連約200公尺。

完成伏擊部署大約在凌晨兩點。我與連長雄哥、政委潤哥一起巡視各排。進入民宅後方花園時,沒有一聲狗吠。安靜得異常。

凌晨三點整,第二連點火。第一道鐵絲網的爆破聲響起,接著第二道、第三道。

幾分鐘後,敵人已確定我軍進攻方向。從基地內開火還擊。第四連火力支援第二連,但無甚效果。第二連因火力中斷好一陣子才再次開炸。

我告訴戰士們緊盯兩條道路,一旦敵人出現就立即開火。我一邊指揮排內弟兄,一邊側耳聽第二連方向的動靜。

17道圍牆。到了早上九點,第二連才突破到第九道。以我的經驗看來,他們傷亡慘重。

近十一點,營政委坎哥與第一連副連長伍哥朝我方陣地走來。此時坎哥本該留在營部,怎麼會出現在我這裡?

坎哥示意我靠近商討。他說:現在由同志你帶隊,聯結爆破裝置,打開側翼通道以牽制敵軍,讓第二連能順利行動。

我接受任務,指派每排至少組成三條爆破繩,一條長度必須達1.5米。完成後由我負責打開第一道鐵絲網。

九條爆破線要炸開九道防線。火力部隊要貼近掩護,當戰士抱炸藥前進時,必須壓制敵火。

正當我製作爆破線時,伍哥與第一連指揮部下令我們停止爆破,立即越過道路,佔領基地東側道路。敵軍已在基地內升起白旗。

我高喊弟兄們前進。離開原地剛走50米,敵軍從新奇教堂屋頂用機槍射擊阻斷我軍行動。我命火箭兵嘉用B41壓制敵火。轟然巨響,敵火熄滅,教堂的水泥碎片灑落在我們頭上。敵人火力太強,即使只剩50米,我軍仍無法接近道路。

我搶過嘉的B41火箭炮。

左肩貼牆,右肩扛著火箭炮,我用瞄準尺對準,屏氣,引爆。火箭彈直擊敵軍機槍火力點,升起一柱白煙。

我再喊前進。一輛裝甲車從敵營飛馳而出。戰士們朝其後方掃射。

為什麼不開火?嘉說:我們後面是己方部隊,前面是自己排的弟兄。

我心想,中計了。敵人升白旗是假,仍不停開火。我們只得全員翻身越過道路。

新奇街與同維基地被濃煙籠罩,炮火震天。

亂葬崗中有一條小道,從營門延伸向東。敵軍欲從此逃脫,被我軍截擊。我們從中午堅守至傍晚,一路戰鬥推進至主營門。

亂葬崗。每座墳墓成了雙方掩體。

在我槍口前,出現一名年輕女子,短髮,一手拿帽、一手拎包。她高聲呼喊某人名字。我猜她在找愛人或丈夫,就在敵營附近。不知她正置身於交火中。

「躺下!馬上離開這裡!」我大聲喊。

一名士兵跑來報告:「報告長官,我們又俘虜了60名敵軍,怎麼處理?」

繩子都不夠用了。我命令:「繳械、脫鞋、脫衣服,推進彈坑裡,派兩人看守!」

我發現一小隊敵人躲在墓後,命令B40射手開火。連發三彈皆落空,因敵人藏身處有墳包掩護。

我命人掩護,我繞左側接近。一穿過草叢便被發現,敵軍AR15一槍命中我胸口,我立刻倒地。

意識尚清,我知道自己未死,便重新振作。怎麼辦?匍匐回去沒力,若再中彈就完了。我調整姿勢開槍,見幾隻腳露出,敵人注意我方掩護部隊。

我屏息開槍,連開兩發,一人中彈倒地。我喊:「投降則生,頑抗則死!」再連開兩槍:「丟掉武器則生,頑抗則死!」再開兩槍。

三顆腦袋冒出,六隻手舉起,一個接一個站起來。

我胸口鮮血湧流至後腰。若此時站起,被敵察覺負傷,必遭補槍。

我坐著開槍,手勢示意三人靠近。

「舉起手來,放下武器,過來!」

「脫鞋,脫衣服!」

我朝地面開兩槍警告。

他們說:「我們有一人受傷。」

我說:「一人為他包紮,一人過來!」

一人走到我面前。

「坐下!舉起雙手!」我左手持槍頂其腋下,右手扶其肩站起。他們這才知道我受傷。

我清楚聽見自己的血在背後淌個不停。新穿的衣服連汗都沒浸過,血水未能吸進布料,直接沿背流成一塊凝在腰間。

「背我去那邊。」

那壯漢背我,兩人互扶走在後頭。四人走在子彈橫飛中。敵我激烈交火,背我者渾身發抖。

「快走,別管它!」我強撐氣力。

我漸漸虛脫,眼前發黑仍故作鎮定。

再走20米我喘不過氣。「停一下。」我氣若游絲。他停下,我滑下背,換個姿勢較能呼吸。

我左臂摟肩、腹靠其背、槍仍在腋下。右手隨時準備射擊。這把捷克製折柄AK剛從敵軍手中奪來,又輕又準。

二十分鐘後,他們將我送回交火戰線。

下午,我到亂葬崗交戰時,不忘觀察四周。這是偵察兵的直覺。約三百米處有間瓜農的小棚子。

我讓權哥派人去拆下一根棍子作擔架,並叫香哥帶兩個最壯的俘虜來抬我。

我把任務交給權哥與三位排長:平、想、雄,叮囑他們設法與連部、營部取得聯絡。連指揮部在新奇街迷路,原本只有我一人指揮四個排。

我想自己撐不過去了。想多說幾句,卻昏迷過去。

意識時斷時續,聽見香哥呵斥俘虜,因為他們喊腳痛肩痛。兩名俘虜正抬我,已被剝光鞋,只穿內衣褲。

我再次昏過去了。


以下是這段越南語文字的完整中文翻譯:


天色已暗。我又醒來了。發現自己正躺在一個市場裡。周圍是許多平民。

一位婦女慌張地說道:「各位戰士,請幫他輸血吧,他失血過多,太虛弱了。」

她拿來一瓶乾血,將血瓶綁在市場的祠堂柱子上。人群散開,讓她有空間為我輸血。

一位開機動車的老伯來了:「戰士們,我來幫一手。需要送傷兵去醫院的話,我可以載去。」

護士覺得這主意合理,叫老伯用車載我去團級軍醫所。

他們連同擔架和正在輸的血瓶一起把我抬上車。

到了地方後,他們把我抬下,放在剛撤離的火力單位的一個120毫米炮坑邊上。

陪我來的護士對兩名運輸兵說:「你們快點把這位同志送到師級的醫療線。」

兩人抬著我奔跑。我時而清醒,時而昏迷。忽然一陣劇烈的顛簸刺痛我全身。「慢一點,我快喘不過氣了,太痛了,各位,太痛了。」我呻吟著,但聲音斷斷續續。

其中一人大聲說:「別呻吟了,我們已經在盡力了!」

忽然,我被扔在田中。夜雨潑灑,天色漆黑。他們跑太快,跌倒了。我又痛又冷。一人說:「弟兄,抱歉,地太滑,看不清。你不會死的,我們走捷徑,會救活你的。」

他們又開始慢慢走,摸索著前進。前面那人踩到一個背包,他們停下來,在裡面找到一塊塑膠布,蓋在我身上。身體立刻暖了些。

前方那人歡呼:「有西瓜,太好了,可以吃一點了!」

捷徑穿過西瓜田。他們又一次把擔架啪地丟在田裡。我說:「麻煩你們把帽子放在我頭下,這樣呼吸比較順。現在平躺著,我沒法呼吸。」他們照做了,把帽子墊在我脖子下,然後去找西瓜吃。多久我不知道。

—「完了,不知道傷兵在哪裡了。」

—「你往那邊找,我往這邊找。記得腳貼著地走,免得踏過擔架卻沒看到。」

我聽著他們交談,卻發不出聲。我就在這裡。如果他們找不到我,今晚我肯定會死在這田裡。

—「喂,傷兵,你在哪裡?呻吟大聲一點!」

—「現在叫他呻吟大聲點,然後耳貼地聽才能辨方向。」

—「喂,傷兵,怎麼該呻吟的時候你不呻吟?你呻吟大聲點,讓我知道你在哪個角落。」

我根本呻吟不出來,根本沒力氣了。

—「喂,傷兵,如果你還沒死,請你拼命呻吟一聲,讓我們知道你還活著。」

我開始能呻吟了。我呻吟,拼盡全力呻吟。

—「這邊,這邊!」

—「哪邊?」

—「就是這邊!」

—「這邊是哪邊?」

—「繼續呻吟,傷兵!」

我又昏過去了。

我聽到兩下啪的一聲耳邊巴掌,把我打醒。我正躺在手術台上。那是一塊竹席,上面鋪了塑膠布,用六根竹竿支起來。這是個流動野戰醫院。

—「他的衣服呢?」

—「不知道。」

—「給他拿條短褲來。」

一位軍醫給我穿上短褲。我看到煤油燈亮著。兩位運輸兵是在晚上十點把我抬到這裡的。

然後是另一對護士把我抬到半地穴式的手術室,裡面掛著一盞風燈。

稻草墊上,傷兵們肩並肩躺著,一片寂靜。

所有人都安靜。我也安靜,看著外頭天已微亮。

護士讓我坐在兩名傷兵中間。一人剛剛斷氣。他們把那人抬走,我就坐在他的空位上。

我腦子清醒了。疼得沒法躺下,躺著就喘不過氣。只能坐著,雙手抱膝。困了,就那樣睡著。

這時是4月30日早上8點。

我身上陣陣發冷。

我看著旁邊那位兄弟。自我進來,他就一直熟睡。

我冷得發抖,看他枕著一個戰鬥包。那是士兵出征時隨身攜帶的裝備袋。包鼓鼓的,我猜裡面有衣服或什麼可以蓋的東西。而我現在,只有一條短褲。

我搖他起來想借用。搖了好久,我摸到他肩膀,怎麼那麼冷?我往下摸他的手、腳,冰冷。他早就死了,身體已僵硬。

我輕聲對他說:「兄弟,我們都是軍人。你已經走了,如果你有長衣長褲,能不能讓我借一套?我太冷了。拜託你。」說完,我扶起他的頭,打開那包。

裡面裝滿了戰鬥裝備。我只拿了長衣長褲,包好後重新墊回他頭下,就像剛才那樣。

一位軍醫經過,我告訴他這裡有人去世了。

擔架兵把他抬走了,我的空間也寬一點了。

十分鐘後,護士又抬來一位傷兵放在原位。他們抬進一個,抬出兩具遺體。一直如此。這個師級軍醫單位有數十個這樣的臨時手術棚。

那位兄弟走了。我淚流滿面。痛惜我的戰友。孤獨而寒冷地死去。他叫什麼?哪裡人?親人是誰?昨晚如果我運氣不好,也會像他一樣。


這篇文字極具真實感,描繪了一位重傷越共士兵在生死邊緣的體驗與同袍之情,也反映出戰場醫療的殘酷與混亂。若需整理成散文或具備評論背景,我可協助補充。


以下是這段越南語的中文翻譯:


三個月後,我康復回到部隊,護士告訴我,當時為我輸血的那位婦女是一位醫生,在新葵(Tân Qui),霍門縣(Hóc Môn)開設私人診所。她與當地民眾自願一起出來搶救傷兵。

一個星期天下午,我請那位護士帶我去她家,想親自向救了我一命的人致謝。

我們到的時候,正好她牽著腳踏車要出門。護士介紹了我,並簡單說明了我們來的原因。

她的神情與當時急救時的慌張樣子完全不同,此刻她的臉上顯得十分冷淡與疏離。兩個人一下子都變得有些尷尬。她說:「你們戰士就在這等,或者出去走走再回來,我要上西貢辦點事,很快就回來。」

我們在她家旁邊的茶水攤等了一個小時,她始終沒回來。我們只好回部隊。

下個星期天我又去了。大門緊閉。我照樣去上次的茶水攤坐下。聊了一會兒,賣水的婦人告訴我,她已經在兩天前走偷渡路線離開了。她的丈夫是1968年陣亡的越南共和國上尉,這些年她獨自撫養孩子長大。


這段文字平靜中帶有沉重,展現戰爭過後人與人之間的距離、流離,以及難以言說的無奈與身份交錯的歷史。需要的話我可以幫忙擴寫、改寫或加入歷史背景說明。


22.


Đơn vị lên xe về Tây Ninh. Hành quân bộ xuống Củ Chi. Người dân bí mật dẫn cả sư đoàn vào làng. Ngay giữa lòng địch mà sao dân ở đây vẫn sinh hoạt bình thường. Ban đêm đoàn điện ảnh cơ động hát hò biểu diễn dưới vòm cây. Buổi trưa anh em mắc võng nằm đung đưa giữa các cây xoài.


Nhiệm vụ trên giao sư đoàn 320 phải đánh căn cứ Đồng Dù, cánh cửa đi vào thủ đô Sài Gòn.


Đêm trước chiến dịch chị chủ nhà nói nhỏ, cộng sản đánh vào Đồng Dù lần này nữa là lần thứ chín rồi đó. Các năm trước đánh được mấy giờ là chúng nó lấy lại, lần nào lâu nhất là được một ngày một đêm. Cộng sản hy sinh ở đó quá nhiều. Dân ở đây nhờn rồi giờ thấy đánh nhau ở Đồng Dù là đi hôi của.


Bảy giờ sáng ngày 28 tháng 4. Cán bộ trung đội trở lên có mặt tại tiểu đoàn bộ để nhận nhiệm vụ trên sa bàn. Sa bàn làm bằng đất giữa bãi hoang ngoài đồng ruộng. Toàn bộ căn cứ Đồng Dù được rút nhỏ lại chừng ba mươi mét. Bao gồm: 120 lô cốt vòng ngoài; 17 lớp hàng rào; Hai cổng chính; 4 tuyến giao thông hào vây quanh; Phía giữa đồn có đường rải nhựa để địch đi lại các kho; Có 4 khu gia đình cách nhau 900m, ban chỉ huy sư đoàn địch đóng giữa.


Đại đội 2 là đại đội chủ công nhận nhiệm vụ mở cửa.


Trung đội của tôi là trung đội chủ công được phân công cắm cờ lên nóc hầm sư đoàn chỉ huy sư đoàn địch.


Hôm nay tôi quyết định mặc chiếc áo mới. Tôi linh cảm có thể đây là lần ra trận cuối cùng.


Trận đánh cuối cùng? Tôi sẽ chết hay sau trận này là kết thúc? Tôi làm sao biết được. Chỉ cảm thấy một trận đánh kịch liệt trước mắt.


Nhà thơ Tố Hữu vào Tây Nguyên thấy anh em bộ đội quần áo rách nát, bẩn thỉu, về ngoài bắc ông đề nghị Bộ hậu cần cấp cho mỗi lính một bộ quần áo. Là chúng tôi nghe trên báo xuống vậy. Nói là một bộ nhưng thực tế mỗi người được một chiếc.


Người có áo thì không có quần. Tôi được cấp chiếc áo. Tôi gọi đó là áo nhà thơ.


Hôm nay tôi mặc áo nhà thơ ra trận đánh lớn.


Ba giờ chiều ngày 28 tháng 4 lệnh xuất kích.


Bầu trời như sắp có cơn mưa lớn vì đen ngòm khói bom đạn pháo. Ba tiếng đồng hồ sau lại thấy đạn của ta như bó đuốc bay thẳng vào đồn địch. Máy bay địch thả pháo sáng và ném bom ở các hướng mà quân ta đang nổ súng. Pháo tầm xa phản lại vùng pháo ta vừa bay lên. Cứ thế hai bên như thách thức ai mạnh hơn, súng ai to hơn, ai gan lỳ hơn.


Chín giờ đêm chúng tôi lọt vào rừng cao su gần đồn địch và được bố trí nằm ngay ở góc vườn nhà thờ. Qua nhà thờ là tới đường 14, cách hàng rào thứ nhất 15 mét, cách đại đội 2 chừng 200 m.


Xong đội hình mai phục có lẽ tầm hai giờ sáng. Tôi cùng anh Hùng đại đội trưởng và anh Nhuần chính trị viên đi kiểm tra các trung đội một lượt. Đi vào các khu vườn của dân ngay phía sau dãy phố mà không có một tiếng chó sủa. Yên tĩnh lạ thường.


Đúng ba giờ sáng đại đội 2 điểm hỏa. Quả mìn mở cửa của lớp hàng rào thứ nhất bung lên. Tiếp tục lớp thứ hai, lớp thứ ba.


Vài phút sau địch đã xác định được hướng tấn công của ta. Từ trong đồn hỏa lực bắn ra. Hỏa lực đại đội 4 chi viện cho đại đội 2 không thấm vào đâu. Đại đội 2 bị gián đoạn lâu mới nổ tiếp được một quả.


Tôi bảo anh em phải dán mắt vào hai hướng đường nếu địch đến là nổ súng. Vừa chỉ huy anh em ở trung đội vừa lắng tai nghe về hướng đại đội 2.


17 lớp cửa mở. Giờ đã chín giờ sáng mà đại đội 2 mới mở đến lớp thứ 9. Với kinh nghiệm mở cửa tôi biết đại đội 2 bị thương vong nhiều.


Gần mười một giờ trưa, ông Cẩn chính trị viên trưởng của tiểu đoàn và anh Năm đại đội phó đại đội 1 tiến lại hướng chúng tôi. Lúc này lẽ ra ông Cẩn phải ở ban chỉ huy tiểu đoàn chứ sao lại đến tận trung đội tôi?


Ông Cẩn ra hiệu tôi lại gần hội ý. Ông nói: Bây giờ đồng chí Ngọc phải tập hợp anh em lại và kết nối bộc phá để mở cửa phụ nhằm thu hút lực lượng địch về phía mình để đại đội 2 dễ hoạt động.


Tôi nhận nhiệm vụ. Phân công mỗi tiểu đội kết cho được ba quả bộc phá. Yêu cầu một quả phải đủ dài 1.5m. Kết xong tôi sẽ mở lớp hàng rào đầu tiên.


Chín quả phải mở được chín lớp. Còn hỏa lực bám sát anh em. Khi anh em ôm bộc phá lên mở cửa phải kiềm chế hỏa lực địch.


Đang ngồi kết bộc phá thì anh Năm và ban chỉ huy đại đội 1 lệnh cho trung đội tôi phải dừng động tác mở cửa và ngay lập tức phải vượt đường để chiếm lấy mặt đường phía đông đồn. Trong đồn địch đã kéo cờ trắng.


Tôi hô anh em tiến. Rời khỏi vị trí được năm mưoi mét thì một khẩu đại liên bên nóc nhà thờ T ân Qui bắn xuống cản đường đội hình. Tôi lệnh cho anh Ca là xạ thủ B41 giập ngay hỏa lực địch. Tiếng nổ ầm, hỏa lực địch tắt và các mảnh vỏ tường xi măng nhà thờ bay xuống đầu chúng tôi đang tiến. Hỏa lực trong đồn địch bắn ra làm cho quân ta không tiếp cận được mặt đường dù chỉ còn năm mưoi mét nữa.


Tôi giật khẩu B41 của anh Ca.


Vai trái dí sát tường nhà thờ vai phải là khẩu B41 tôi lấy thước ngắm chuẩn xác. Nín thở. Bóp cò. Quả B41 lao thẳng vào miệng lô cốt địch đang nhả đạn đỏ lừ về hướng quân ta. Cột khói trắng dựng lên.


Tôi tiếp tục hô tiến. Một chiếc xe bọc thép từ trong đồn vụt qua. Anh em bắn vuốt đuôi.


Sao không nổ súng? Anh Ca nói: Phía sau lưng quân ta nằm dày, phía trước là anh em trung đội.


Tôi thầm nghĩ, ta bị địch nghi binh rồi. Kéo cờ trắng mà chúng vẫn nổ súng không ngừng. Tất cả chúng tôi ôm súng lăn qua đường.


Bầu trời phố Tân Qui và căn cứ Đồng Dù mù mịt khói đen. Tiếng nổ rầm trời.


Giữa bãi tha ma có một con đường mòn chạy dọc từ cổng đồn ra phía đông. Bị quân ta chặn đánh địch nhằm hướng này chạy thoát. Chúng tôi bám trụ tại đây từ trưa và giờ đã gần hết buổi chiều. Vừa đánh vừa lấn tới phía cổng chính.


Bãi tha ma. Từng ngôi mộ làm điểm tựa cho cả ta và địch.


Trước mũi súng tôi xuất hiện một người con gái trẻ, tóc ngắn, tay cắp nón tay xách túi. Cô gọi to tên ai đó. Tôi đoán cô đi tìm người yêu hoặc chồng đang đâu đây quanh đồn địch. Cô không biết mình đang đi giữa làn đạn ta và địch.


Cô kia nằm xuống hoặc ra khỏi ngay trận địa. Tôi quát to.


Một cậu lính chạy lại: Báo cáo anh, ta bắt được thêm sáu mươi tù binh giờ phải làm sao?


Không còn đủ dây để trói nữa. Tôi lệnh: Lột hết vũ khí, giày tất, quần áo rồi đẩy xuống hố bom, cho hai thằng gác.


Tôi phát hiện một tốp địch nấp sau ngôi mộ. Lệnh cho xạ thủ B40. Xạ thủ bắn ba quả đều trượt. Vì địch có mô đất trên mộ che chắn.


Bảo anh em yểm trợ, tôi vòng sang trái. Lướt qua bụi cây bị chúng phát hiện ra. Viên đạn AR15 bắn trúng ngực. Tôi gục xuống giây lát.


Biết mình chưa chết, tôi lấy lại tinh thần. Giờ sao? Bò quay trở lại thì không đủ sức. Mà trúng thêm đạn cũng toi luôn. Tôi lấy lại tư thế nằm bắn. Nhìn thấy mấy chân địch thò ra. Lúc này chúng nó chú ý đến anh em đang nổ súng yểm trợ cho tôi.


Tôi nín thở bóp cò. Hai phát liên tục. Một thằng lăn ra khỏi điểm tựa. Tôi hô to: Hàng thì sống chống thì chết. Bắn luôn hai phát. Hô tiếp: Bỏ thì sống chống thì chết. Bắn thêm hai phát. Hô tiếp. Ba cái đầu nhô lên, sáu cánh tay giơ cao, từng đứa đứng dậy.


Máu trong ngực tôi đang phun ra phía sau lưng. Nếu đứng dậy có thằng phát hiện ra tôi trúng thương sẽ bắn trả. Bắn trả tôi chết chắc.


Tôi tư thế ngồi bắn. Tay ra hiệu ba đứa lại gần mình.


- Giơ tay lên. Bỏ súng xuống. Lại đây!

- Cởi giày. Cởi quần áo!

Tôi bắn hai phát xuống đất, trước mặt chúng.


- Thưa anh, bọn em có một thằng bị thương.

- Một thằng băng bó cho thằng kia. Một thằng lại đây.

Một thằng tiến lại sát trước mặt tôi.


- Mày ngồi xuống. Giơ hai tay lên.

Một tay tôi cầm súng kề dưới nách nó. Một tay tôi vịn vai nó đứng dậy. Lúc này chúng mới biết tôi bị thương.


Tôi nghe rõ tiếng máu mình đang chảy re re sau lưng. Áo mới mặc chưa thấm mồ hôi lần nào, máu chưa ngấm được vào sợi vải nên trôi theo lưng đọng thành cục nằm giữa và một bên thắt lưng.


- Cõng tao lại đằng kia.

Thằng to khỏe cõng tôi. Hai thằng kia dìu nhau đi sau. Bốn chúng tôi đi giữa tiếng đạn không phút nào ngơi giữa ta và địch. Hai bên đang giao tranh giữ dội. Thằng cõng tôi run lẩy bẩy.


- Đi đi, mặc xác nó. - Tôi cố hết sức lên giọng.


Tôi đang kiệt sức dần. Đầu óc choáng váng. Thấy nổ đom đóm mắt nhưng vẫn giả vờ mình không vấn đề gì.


Đi thêm hai mươi mét tôi thấy như không thở được nữa. Tôi thều thào. Mày đứng lại. Nó đứng lại và tôi tụt xuống khỏi lưng, tìm một tư thế khác dễ thở hơn để đi tiếp.


Tay trái bá vai, bụng dựa vào lưng và súng vẫn để nguyên dưới nách nó.


Tay phải luôn để ở vị trí nòng cò, lê xuyên từ nách trái sang nách phải của nó. Khẩu AK báng gấp của Tiệp mới cứng, vừa nhẹ vừa chính xác. Khẩu súng này tôi mới lấy được của địch.


Hai mươi phút sau chúng đưa tôi về đến tận nơi anh em đang nổ súng.


Buổi chiều, khi đến bãi tha ma tôi vừa nổ súng vừa đảo mắt quan sát xung quanh. Phản xạ của lính trinh sát khi đến một địa hình mới. Tôi thấy cách chừng ba trăm mét có nhà chòi của dân giữ dưa hấu.


Tôi nói với anh Quyền cho người lại nhà chòi tháo một đòn tay làm đòn khiêng tôi về đon vị quân y. Và bảo anh Hường áp tải hai thằng tù binh khỏe nhất đang ngồi dưới hố bom lên khiêng tôi.


Tôi bàn giao nhiệm vụ cho anh Quyền và ba tiểu đội trưởng là Bình, Tưởng, Hùng. Dặn họ cố gắng bắt liên lạc với ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn. Ban chỉ huy đại đội bị lạc khi đi dọc đường phố Tân Qui. Một mình tôi chỉ huy cả bốn trung đội.


Tôi nghĩ mình sẽ không qua khỏi. Muốn nói nhiều hon nữa. Nhưng rồi ngất xỉu khi nào không biết.


Lúc tỉnh lúc mê tôi nghe tiếng anh Hường đang quát tháo tù binh vì họ kêu đau chân đau vai. Hai tù binh đang khiêng tôi đi. Họ bị lột giày và chỉ mặc quần áo lót.


Tôi thiếp đi.


Trời xẩm tối. Tôi lại tỉnh. Thấy mình đang nằm trong một cái chợ. Xung quanh nhiều người dân.


Một người phụ nữ giọng hốt hoảng: Các chú bộ đội oi cho tôi tiếp máu người này nhé, người này thiếu máu trầm trọng, yếu quá rồi.


Người phụ nữ mang chai máu khô đến. Cột chai máu vào cái cột đình của chợ. Người dân tản ra để chị thao tác truyền máu cho tôi.


Một bác đánh xe lam đến: Bộ đội cho tôi giúp một tay với. Cần chở thương binh đến bệnh viện nào tôi chở đi.


Anh y tá nghe hợp lý. Bảo bác xe lam chở tôi tới phẫu quân y trung đoàn.


Họ đặt nguyên cả đòn cáng ngang xe lam và mang theo chai máu đang truyền.


Đến nơi họ cáng tôi xuống, đặt ngang trên miệng hố pháo 120 ly của đơn vị hỏa lực vừa rời khỏi.


Anh y tá đi cùng tôi đến đây nói với hai anh vận tải: Các anh khẩn trương đưa anh này lên tuyến sư đoàn.


Hai anh vận tải khiêng tôi chạy. Tôi nằm trên cáng lúc tỉnh lúc mơ. Một tiếng dằn mạnh đau nhói. Từ từ các anh ơi tôi không thở được nữa. Đau quá các anh ơi đau quá các anh ơi. Tôi rên ư ử không thành tiếng.


Một trong hai người nói to. Đừng rên nữa, bọn tao đang cố hết sức đây.


Bất ngờ tôi nằm xoài giữa đám ruộng. Trời mưa, đêm tối. Các anh chạy nhanh quá vấp ngã. Tôi đau điếng. Vừa đau vừa rét. Một trong hai người lại nói: Chú mày thông cảm, đường trơn quá không nhìn thấy gì. Chú mày sẽ được cứu sống, không chết đâu mà lo. Bọn tao đang đi tắt cho nhanh.


Rồi họ lại bước chậm. Họ đang dò đường. Chân người đi trước giẫm phải cái ba lô. Họ dừng lại, lục tìm được tấm ni lông trùm lên người tôi. Tấm ni lông trùm lên tôi ấm hẳn.


Người đi trước nói như reo: Dưa hấu mày ơi, ăn đã.


Đường tắt qua ruộng dưa hấu. Hai người lần nữa thả phạch cáng xuống giữa ruộng. Tôi nói hai anh đặt chiếc mũ lên đầu cho dễ thở hơn, nằm phẳng thế này tôi không thở được. Họ đặt mũ vào gáy tôi. Họ đi tìm dưa hấu. Họ đi tìm dưa hấu ăn trong bao lâu tôi không biết.


- Chết cha không biết thằng thương binh đâu rồi.


- Tao và mày đi tìm hai hướng. Nhớ xát chân vào mặt đất khỏi bước qua cáng mà không biết.


Tôi nghe hai anh nói với nhau mà không sao lên tiếng được. Tôi ở đây. Các anh không tìm được chắc tôi chết ở đây trong đêm nay.


- Ơi thằng thương binh. Mày đang chỗ nào rên thật to lên.


- Bây giờ phải bảo nó rên thật to rồi ghé tai xuống đất nghe cho rõ.

- Ơi thằng thương binh sao khi cần rên mày không rên. Mày rên thật to để tao ghé tai xuống đất xem mày nằm ở góc nào.

Tôi không rên được, không làm sao rên được.


Tôi còn sức đâu nữa mà rên hở các anh.


- Ơi thằng thương binh nếu mày chưa chết thì mày cố rên lên để bọn tao còn biết.


Tôi bắt đầu rên được. Tôi rên. Rên to. Bao nhiêu sức dồn hết vào mà rên.


- Hướng này mày ơi.

- Hướng nào?

- Hướng này.

- Hướng này là hướng nào.

- Rên tiếp đi nữa thằng thương binh ơi.

Tôi lịm đi.


Tôi nghe hai cái tát bộp bên tai rồi mở mắt. Tôi đang nằm trên bàn mổ. Bàn mổ là tấm liếp tre trải ni lông dựng lên trên sáu cái cọc tre. Đây là bệnh viện dã chiến cơ động.


- Quần áo đâu?

- Không biết.

- Lấy cho anh ta cái quần đùi.

Anh y sĩ mặc chiếc quần cho tôi. Tôi nhìn thấy đèn măng sông sáng. Hai anh vận tải khiêng tôi đến đây lúc mười giờ đêm.


Và giờ hai anh y tá khác khiêng tôi đến hầm phẫu. Hầm phẫu nửa chìm nửa nổi có treo một chiếc đèn bão.


Trên thảm rơm thương binh nằm san sát. Tất cả đều im lặng.


Tất cả đều im lặng. Tôi cũng im lặng. Nhìn ra ngoài trời đã hửng sáng.


Y tá đặt tôi ngồi giữa hai thương binh. Một người vừa tắt thở. Họ khiêng người đó ra và tôi thay vào chỗ trống.


Đầu óc tôi đã tỉnh táo. Tôi đau không nằm được. Nằm thì không thở được. Cứ ngồi hai tay ôm đầu gối. Buồn ngủ cứ thế mà ngủ.


Lúc này là tám giờ sáng ngày 30 tháng 4.


Trong người tôi lên từng cơn rét.


Tôi nhìn sang người anh đang nằm bên cạnh. Từ khi tôi vào đến giờ anh vẫn ngủ say.


Tôi rét run cầm cập. Nhìn thấy anh đang gối đầu lên cái bọc chiến đấu. Đó là cái bọc của người lính mỗi lần ra trận mang theo bên người. Cái bọc vẫn còn căng. Tôi đoán trong đó có quần áo dài hoặc cái gì đó để đắp. Trên người tôi lúc này vẫn chỉ một chiếc quần đùi.


Tôi lay anh dậy để xin mượn. Lay mãi. Tay tôi sờ vào vai anh. Sao lạnh thế này. Tôi mò xuống tay anh xuống chân anh. Lạnh ngắt. Anh đã chết từ khi nào. Cơ thể đã cứng đi rồi.


Tôi nhìn anh nói nhỏ: Anh ơi ta đều lính cả. Anh đi rồi thì anh có cái áo cái quần dài nào cho tôi. Tôi rét quá. Anh cho tôi xin anh nhé. Nói xong tôi đỡ đầu anh lấy cái bọc.


Trong bọc vẫn đầy đủ các loại đồ phục vụ chiến đấu. Tôi chỉ xin anh bộ quần áo dài. Buộc lại gọn gàng, kê lên đầu cho anh như khi nãy.


Y sĩ đi qua. Tôi báo ở đây có người chết rồi.


Nhân viên đưa cáng khiêng anh đi. Chỗ tôi ngồi rộng hơn một tý.


Mười phút sau y tá lại cáng một người khác nằm xuống chỗ anh. Khiêng một anh thương binh vào, khiêng hai cái xác ra. Chốc chốc lại như vậy. Đơn vị quân y của sư đoàn biết mấy chục cái lán như thế này.


Anh đi rồi. Hai hàng nước mắt tôi đầm đìa. Xót xa đồng đội. Chết cô đơn lạnh lẽo. Anh tên gì quê anh đâu người thân của anh là ai. Đêm qua nếu tôi không may thì cũng giống như anh vậy thôi.


*


Ba tháng sau bình phục trở về đơn vị tôi được anh y tá cho biết người phụ nữ truyền máu cho tôi là bác sĩ có phòng mạch riêng ở Tân Qui, huyện Hóc Môn. Chị cùng người dân tình nguyện đi cấp cứu thương binh.


Một chiều chủ nhật tôi nhờ anh y tá đưa đến nhà chị nói lời biết ơn người đã cứu mạng.


Chúng tôi đến vừa khi chị đang dắt xe ra khỏi cổng. Anh y tá giới thiệu tôi và nói qua lý do sao chúng tôi lại đến nhà.


Khác hẳn với vẻ hốt hoảng hôm cấp cứu tôi, khuôn mặt chị lúc này nhìn thật xa cách và thờ ơ. Hai anh em tự nhiên lúng túng. Chị nói: các chú bộ đội cứ chờ đây, hoặc đi đâu đó một lúc rồi quay lại, chị lên Sài Gòn có chút việc rồi về.


Ngồi chờ chị ở quán nước sát bên nhà một tiếng đồng hồ chị vẫn chưa về. Chúng tôi phải về đơn vị.


Chủ nhật tuần sau tôi lại đến. Cửa đóng. Tôi sang quán nước hôm trước ngồi. Trò chuyện một lúc người bán nước cho biết chị đã theo đường vượt biên cách đây hai hôm rồi. Chồng chị là đại úy Việt Nam Cộng hòa bị giết năm 1968. Bao nhiêu năm nay chị một mình nuôi con.


以下是原文的完整中文翻譯:


23.

我被轉送到175軍醫院外科治療。負責為我建立病歷並治療的是蘭醫生。

十天過去,我仍然呼吸困難,體力極度衰弱。

每天早上,病患按標準配發一塊麵包和一盒牛奶。那天早上我虛弱得吃不下。蘭醫生來打針。平時都是護士打針,不知為什麼這天早上卻是他親自來。針剛拔出我就昏迷過去,不省人事。

醒來後,我聽見隔壁病床的病患講述發生在我身上的事:打完針後,我既沒把褲子拉上,也沒轉身,腳也沒落地。他走過來搖我提醒,才發現我已昏迷。他趕緊叫正在隔壁病房巡診的醫生。病房間以玻璃隔開,從這邊可以清楚看到那邊。醫生們趕來,把我翻過身、量血壓、掀開眼皮檢查瞳孔。不清楚是藥物過敏、過量,還是其他原因,只知道後來蘭醫生又為我注射了一劑藥,然後觀察直到我醒來。

從那天起,我變成了特殊病患,獲得蘭醫生特別關照。他每天三次為我打針。我趴著,他一下子就從我肺裡抽出一管充滿血膿的液體。我得的是肺動脈阻塞,這正是導致呼吸困難的原因。

在醫院的將近三個月裡,我所接受的注射與服用的藥物多到數不清。每天三針。到第三個月時才減為每天兩針。

蘭醫生每天來探視,鼓勵我。有時不是他的值班日,他也會抽空來坐幾分鐘,聊上幾句。我能感受到他對我的真誠關懷。

我開始能坐起來,慢慢練習走路。某天傍晚吃完飯,蘭醫生邀我去他家走走,換個心情。他的家就在醫院園區內。

我答應了。他一步步扶我走,一手拄拐杖,一手靠著他,就像一個學步的孩子。

他的家整潔溫馨。他的妻子三聲音柔和,說話溫婉。她泡了茶,端出一盤糖果餅乾。他們的孩子圍著我走來走去,帶著好奇與親切的目光看著我。她自我介紹說自己是竹篙醫院(Chợ Rẫy)護理人員。那晚的氣氛溫馨融洽,讓我不再對第一次踏進西貢人家感到拘謹。

後來他又牽我去幾次,之後我便自己拄拐杖過去。住院久了會悶,我就起身去找孩子們玩。他們問了我許多小朋友常會好奇的問題,有些我答不上,就笑笑帶過。

有一次她端出一杯冰淇淋請我。我舀了一勺,冰淇淋真好吃。我正準備再舀一勺,突然警覺——如果這裡面下了毒怎麼辦?我想起在綏和時首長的提醒。現在局勢混亂,敵我難辨。我內心動搖,明明想敞開心胸、分享心情,但那一刻我靜靜地放下湯匙,對她說:「我吃這些就夠了。」那第一次吃到的冰淇淋冰涼滋味至今仍留在舌尖。

大姐——他們的姊姊第一次見面就像老朋友般與我交談,可能他們事先向她提過我。

她問我北方是怎麼發展經濟的。他們是1954年自北方南遷的。我回答我們種田,組成合作社。她認真地聽著。雖然我身體孱弱,但我內心仍以解放軍身分自豪。我清楚地回答她關於北方鄉親的疑問。

「北方怎麼幹活?」這句話,後來我又從許多西貢人嘴裡聽到。有個女人聽我說我們鄉下是合作社運作方式時,笑了出來:

「小弟啊,這樣做人腦子會越來越笨吧?」我一聽臉紅了,覺得被侮辱。我平靜回應:「那是看個人怎麼想,笨不笨取決於個人是否肯學習成長。」

她繼續說:「你就是保守。在我看來,這樣的經濟方式根本無法自由發展。要等生產隊長敲鑼,農民才拿鋤頭、牽牛出去耕田。沒敲鑼就坐在家裡等。除了種田,不知道拓展其他經濟,怎麼發展?」

我忍住。自己是軍人,他們是老百姓,軍民如魚水,該謹言慎行。無論如何都不能引起敵意。

後來有指令:幹部家屬不得住在醫院區域。蘭醫生一家要搬出,他說要帶我一起去看預計購買的新房。我說:「如果你信我、尊重我那就去吧,其實我從鄉下到山裡打仗,哪懂買房這事?」

他妻子勸我陪他去,她說有我一起她才安心。

真的嗎?有我她才安心?我感受到她話裡的客氣。我正好心情鬱悶,能外出走走也好,順便參觀西貢。

那是一棟兩層樓的華麗洋房。我一走進去便感到眼花撩亂。這是客廳,那是臥室,這是廚房,那是衛浴。我跟著他走。還記得在西原上政治課時,老師教我們西貢因地狹人稠才蓋高樓,不像北方那樣寬敞。他們的富裕外表是美帝投資造成的。想到這些提醒,我很快就恢復平靜。他說這房子要多少兩黃金,問我意見。我淡定回答:「這房子不錯,離醫院近,對你上班方便。」

這幾天蘭醫生沉默、憂鬱。他來病床邊坐下,我們一起在醫院園區散步。

— 你聽過市政廣播連續播放的消息嗎?

— 我有聽。

— 你是軍官,有上尉軍階,應該服從命令。你應該去區公所登記。他們要你填什麼表就填,要你登記什麼就照做。你是軍醫,為軍人治病,沒什麼可怕的。去接受改造學習幾年就可以回來了。

我出院那天,三送來一包糖果和香菸當作告別禮物。

我說:「感謝你們一家人。我只收一包糖一包菸,帶回部隊送給兄弟們。」

「其餘的我不能收。我們當兵的不能拿這些東西,帶回去會被說成是打仗時搶來的,那就是戰利品。戰利品是用戰友的鮮血換來的,我們認為拿這些東西就是對不起戰友。如果妳有心,等我退伍了,妳要給多少我都會收。」

我回到西原後收到她的來信,詢問我的傷勢是否已癒,是否已回北方。她說孩子們和大姐經常提起我,盼望早日再見。信的最後,她告訴我蘭醫生已聽從我建議,到區公所登記,目前正在接受改造學習。

我還沒來得及回信,又過了十天,她再來一封信,寫了蘭醫生現在被關的地點,希望我能寫信去鼓勵他。

接著又是一封。我認真思索每句話,希望能強烈鼓勵她。她很快回信,裡面我感受到她有一種難以言說的急切。

我只是一個兵,我只能做到這些。我不希望她難過,但我也不知道該說什麼,感到羞怯。她寄信來,我卻沉默不語。

最後一封信是1975年12月8日寫的:


「他自6月23日被送去改造學習,到現在將近半年還沒回來。我一邊工作一邊照顧孩子們,心裡掛念著他的健康。大姐和我都消瘦了,女人總是多愁善感。以前一家團聚慣了,現在分離,無法見面,我日夜憂慮,吃不好睡不好。雖然如此,我知道革命政府寬大,給人改過自新的機會,也照顧飲食起居,這讓我也有信心。

我家有一位親叔叔,是共產黨員,也是教育幹部,自1945年以來一直在南方革命根據地工作。他曾在兩次被捕關押於昆島時獲得你們軍隊的協助。叔叔也幫我寫了保證書,隨著我提交的申請表,經地方政府核實。不知道申請是否會被審核,因為已經兩個月沒收到他的來信。你能不能寫封信去問候他?如果你寫信,那會是他極大的安慰。

孩子們現在都去上學了,而且成績也很好。他們很想念你,也祝福你能早日與家人團聚,就像他們盼望父親蘭醫生回來一樣。

我祈禱上天,願我們全家與你能在一次溫馨的家庭聚餐中團聚。」

三 敬上


如需整理成敘事文章或加入歷史註釋、轉為散文或新聞風格,我可以繼續協助。

23.

Tôi được chuyển về điều trị tại khoa ngoại Viện quân y 175. Làm bệnh án và điều trị cho tôi là bác sĩ Lân.

Qua mười ngày tôi vẫn đang trong tình trạng khó thở. Sức khỏe suy kiệt.

Mỗi buổi sáng bệnh nhân tiêu chuẩn được một cái bánh mỳ và hộp sữa. Sáng nay tôi mệt lả không ăn nổi. Bác sĩ Lân đến tiêm. Mọi khi y tá tiêm nhưng không hiểu sao sáng nay lại là bác sĩ. Rút kim tiêm xong tôi lịm đi không biết gì nữa.

Tỉnh dậy tôi nghe anh bệnh nhân giường bên cạnh tường thuật lại chuyện đã xảy ra với mình. Sau khi tiêm xong tôi không kéo quần lên, không quay người lại, không bỏ chân xuống. Anh sang lắc người tôi nhắc nhở thì biết tôi đã mê man. Anh gọi bác sĩ đang thăm khám phòng bên kia. Các phòng ngăn cách bằng tấm kính nên từ phòng này nhìn rõ sang phòng kia. Các bác sĩ có mặt. Họ lật người tôi lại, đo huyết áp, kéo xem tròng mắt. Không rõ tôi bị sốc thuốc, thuốc quá liều hay vì lý do gì, chỉ biết sau đó bác sĩ Lân tiêm thuốc cho tôi rồi quan sát chờ tôi tỉnh dậy.

Từ hôm đó tôi trở thành bệnh nhân đặc biệt, được bác sĩ Lân quan tâm nhiều hơn những bệnh nhân khác. Mỗi ngày tôi phải tiêm ba lần. Tôi nằm sấp. Bác sĩ Lân chọc một phát kéo ra từ phổi một xi lanh đỏ ngầu máu mủ. Tôi bị tắc động mạch phổi. Đó chính là nguyên nhân khiến khó thở.

Số thuốc tôi phải tiêm và uống trong suốt gần ba tháng nằm viện nhiều không biết bao mà kể. Mỗi ngày ba phát tiêm. Sang tháng thứ ba giảm xuống còn hai phát mỗi ngày.

Bác sĩ Lân hàng ngày xuống thăm, động viên tinh thần tôi. Những hôm không phải phiên trực anh cũng ghé qua vài phút hỏi han dăm ba câu vui vẻ. Tôi cảm nhận được sự quan tâm chân thành anh dành cho mình.

Tôi bắt đầu ngồi dậy rồi đi lom khom. Một buổi chiều ăn cơm xong bác sĩ Lân qua rủ tôi sang nhà chơi cho thay đổi không khí. Ngôi nhà anh ở trong khuôn viên bệnh viện.

Tôi đồng ý đi. Anh dắt tôi từng bước chậm chạp. Một tay tôi cầm nạng một tay dựa vào anh như đứa trẻ lần đầu tập đi.

Ngôi nhà anh thật gọn gàng, ấm cúng. Vợ anh là chị Sâm giọng nhỏ nhẹ từ tốn. Chị pha trà. Đưa ra một đĩa bánh kẹo. Những đứa con đi lại quanh phòng quanh chỗ tôi ngồi nhìn tôi vẻ tò mò và quý mến. Chị giới thiệu mình là nhân viên điều dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy. Không khí thân mật buổi tối giúp tôi bớt ngại ngùng khi lần đầu tiên bước vào một ngôi nhà ở Sài Gòn.

Anh dắt vài lần, sau đó tôi tự sang một mình. Nằm viện mãi cũng buồn, tôi lại dậy chống nạng đến chơi với bọn trẻ. Chúng hỏi tôi những câu trẻ nhỏ vốn hay tò mò. Câu nào tôi không trả lời được thì cười trừ.

Một lần chị mang kem cốc ra mời tôi. Tôi xúc một thìa. Kem ngon quá. Tôi định xúc thêm thìa nữa bỗng giật mình cảnh giác. Lỡ người ta bỏ thuốc độc thì sao. Tôi nhớ lời thủ trưởng nhắc nhở hôm ở Tuy Hòa. Bây giờ tình hình đang hỗn loạn khó phân biệt địch ta. Trong lòng tôi xúc động. Trong lòng tôi muốn đón nhận muốn san sẻ tâm tư nhưng phút chốc ấy đột nhiên tôi thả chiếc thìa xuống bên cạnh cốc kem rồi từ tốn nói với chị em ăn thế đủ rồi. Vị kem lạnh lần đầu tiên nếm thử thấm lưỡi tôi tới ngày hôm nay.

Chị Hai - chị gái của anh chị lần đầu tiên gặp tôi đã trò chuyện như quen thân từ lâu rồi. Có lẽ anh chị đã nói sơ qua về tôi cho chị biết.

Chị Hai hỏi tôi ngoài Bắc cung cách làm ăn kinh tế ra sao. Họ cũng là dân Bắc nhưng di cư vào Nam năm 1954. Tôi trả lời rằng chúng tôi làm ruộng, thành lập tổ hợp tác xã. Chị chăm chú lắng nghe tôi nói. Tôi mặc cảm bệnh tật nhưng trong lòng kiêu hãnh là anh bộ đội giải phóng. Tôi trả lời rành rẽ những thắc mắc của chị về bà con ngoài Bắc.

Ngoài Bắc làm ăn theo kiểu gì là câu tôi được nghe những người Sài Gòn hỏi thêm nhiều lần sau đó nữa. Một người phụ nữ đã chê cười khi nghe tôi nói ngoài quê mình làm ăn theo cung cách hợp tác xã.

“Chú này, nếu làm như vậy thì đầu óc con người ta ngày càng ngu đi nhỉ”. Tôi nóng mặt vì tự ái. Tôi điềm đạm trả lời: “Cái đó là tùy suy nghĩ của chị thôi. Ngu hay không là tự cá nhân đó phát triển hay không”.

Chị tiếp tục: “Đó là chú bảo thủ. Riêng quan điểm tôi cách thức làm ăn như vậy là không tự do phát triển. Đợi đội trưởng đánh kẻng rồi dân mới cầm cuốc mang cày đi. Đội trưởng chưa đánh kẻng thì ngồi ở nhà chờ. Ngoài làm ruộng ra không biết mở rộng ra làm kinh tế thì làm sao phát triển”.

Tôi kiềm chế. Mình là bộ đội. Họ là dân. Bộ đội với dân như cá với nước, mình phải giữ lời ăn tiếng nói để đi dân nhớ ở dân thương, dù lý do gì thì gây hiềm khích là không nên.

Có chỉ thị các gia đình cán bộ không được ở trong khu vực bệnh viện nữa. Gia đình bác sĩ Lân đi tìm mua nhà ngoài phố. Anh bảo tôi cùng đi xem một ngôi nhà dự tính sẽ mua. Tôi nói, anh tin tưởng, tôn trọng thì nói thế chứ em ở quê vào rừng đánh trận rồi trên rừng về đây biết gì chuyện mua bán.

Chị thuyết phục tôi đi cùng anh. Chị nói có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm.

Thật sao, có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm? Tôi cảm thấy sự khách sáo trong câu chị nói. Tôi đang buồn, được đi ra ngoài thì vui. Đây cũng là dịp được thăm thú Sài Gòn.

Ngôi nhà hai tầng khang trang lộng lẫy. Vừa đặt chân vào tôi thấy choáng ngợp. Đây là phòng khách, đây phòng ngủ, đây phòng bếp, đây phòng vệ sinh. Tôi đi theo anh chỉ dẫn. Hôm ở Tây Nguyên học về chính trị chúng tôi đã được cho biết rằng trong Sài Gòn làm nhà cao tầng vì đất chật hẹp chứ không rộng rãi như ngoài ta. Trong kia hào nhoáng giàu có là vẻ bên ngoài. Vẻ hào nhoáng đó là do đế quốc Mỹ đầu tư. Tôi nghĩ tới lời cảnh tỉnh đó nên nhanh chóng lấy lại sự thăng bằng. Anh nói giá nhà là bao nhiêu cây vàng gì đó rồi hỏi ý kiến tôi ra sao. Tôi trả lời thật bình thản, ngôi nhà này cũng tuyệt vời đấy, có ưu điểm gần bệnh viện anh đi làm.

Mấy hôm nay bác sĩ Lân trầm ngâm, buồn bã. Anh đến giường bệnh tôi ngồi. Hai chúng tôi đi dạo quanh khuôn viên bệnh viện.

- Anh nghe đài thành phố nói liên tục không?

Tôi có nghe liên tục.
Anh sĩ quan quân hàm đại úy anh phải chấp hành. Anh nên ra đăng ký tại phường. Người ta yêu cầu anh làm đon gì anh làm nấy, yêu cầu anh đăng ký tên tuổi thế nào anh cứ làm như thế. Anh là bác sĩ quân y. Anh chữa bệnh cho quân nhân. Không việc gì phải sợ. Học tập cải tạo vài năm anh về.

Ngày tôi ra viện chị Sâm đưa một túi bánh kẹo, thuốc lá đến chia tay tôi.

Cảm on gia đình chị. Em chỉ xin một gói kẹo và một gói thuốc mang về làm quà anh em ở đon vị.

Còn lại em xin phép không nhận. Bọn em đời lính không được dùng những khoản này. Em mang về rồi đon vị họ cho rằng em lấy khi đang đánh nhau. Đó chính là chiến lợi phẩm. Mà là chiến lợi phẩm thì thuộc vào mồ hôi xưong máu của đồng đội đã ngã xuống. Quan điểm chúng em dùng những thứ này là có tội với đồng đội. Nếu chị có lòng thì đợi khi ra quân chị cho bao nhiêu em cũng lấy.

Tôi về Tây Nguyên nhận được thư chị. Chị hỏi thăm vết thưong tôi thế nào rồi, đã về Bắc chưa, bọn trẻ và chị Hai ở đây luôn nhắc tới tôi và mong sớm có ngày gặp lại. Cuối thư chị báo tin anh Lân nghe lời tôi đã ra phường đăng ký và hiện đang đi học tập cải tạo.

Tôi chưa kịp viết thư trả lời thì chục ngày sau nhận tiếp được lá thư nữa. Chị cho tôi địa chỉ nơi anh đang học tập cải tạo, mong tôi viết thư động viên anh.

Lá thư tiếp nữa. Tôi nghĩ ra từng lời thật mạnh mẽ động viên chị. Chị viết thư trả lời ngay khi nhận được thư tôi. Tôi cảm nhận được cái gì đó gấp gáp mà chị khó nói ra.

Tôi chỉ là một thằng lính. Tôi chỉ biết tới vậy thôi. Tôi không muốn chị buồn. Tôi không biết nói gì. Tôi ngại ngùng. Chị viết thư lên tôi im lặng.

Lá thư cuối cùng tôi nhận được viết ngày 8 tháng 12 năm 1975.

“Anh đã đi tập trung cải tạo từ ngày 23/6 đến nay gần sáu tháng chưa được về. Chị vừa làm việc vừa nuôi các cháu vừa lo không biết sức khỏe anh ra sao. Chị và chị Hai cứ gầy mòn đi. Tại tính đàn bà hay lo. Vả lại từ trước tới nay sum họp một nhà quen rồi, bây giờ xa cách không gặp được mặt nhau là chị lo nghĩ liên miên mất cả ăn ngủ nên gầy mòn chứ chị được biết chính quyền cách mạng khoan hồng, cho cơ hội cải tạo và lo cho áo cơm đầy đủ chị cũng vững tin.

Gia đình chị có ông chú ruột hiện là Đảng viên - cán bộ giáo dục, cơ sở hoạt động cho cách mạng tại Nam Việt Nam từ 1945 tới nay. Anh đã tận tình giúp đỡ cho gia đình chú trong hai lần bị bắt tù đày Côn Đảo. Chú chị có làm giấy bảo lãnh cho anh và kêu theo đơn xin của chị có thị thực chính quyền địa phương đầy đủ. Không biết đơn có được cứu xét hay không mà hai tháng nay chị chưa được thư anh. Em có thể viết thư thăm anh được không? Nếu được lá thư của em sẽ là nguồn an ủi lớn cho anh đó.

Các cháu đi học cả rồi và học giỏi nữa. Các cháu rất nhớ chú Ngọc và mến yêu chúc chú sớm được sum họp gia đình - cũng như các cháu hằng mong tin ba Lân vậy.

Chị cầu xin ơn trên cho anh, chị, chị Hai và các cháu sẽ được cùng em họp mặt trong một bữa cơm gia đình thân thiết.

Chị Sâm”.

以下是將原文翻譯成中文的內容:


24.

住院的日子疲憊又無聊。幸好認識了蘭醫生一家,偶爾有人來聊聊天,心情也稍微輕鬆一點。但去得多了,我也覺得不好意思。

我住的病房在二樓。每天都拄著拐杖從二樓下到一樓,再從一樓爬回二樓。身體好一點的日子,還會慢慢走到醫院門口,看著街道。

街上熱鬧喧囂,和我孤單迷茫的心情形成強烈對比。這些年我出生入死,哪怕受傷,一條腿長一條腿短,也還是衝上戰場。如今卻虛弱不堪。像現在這種身體狀況,不知道還能做什麼。

住院已經一個月,部隊竟然還不知道。後來我才知道部隊已經把我列為陣亡將士名單。幸好還沒把陣亡通知書寄回老家。4月29日傍晚,當連隊護士和指揮部看到我被送上老百姓的車去急救時,臉色和身體狀況都不好,他們以為我撐不過去了。我回部隊時,軍裝已被人拿走,隨身背了四年多、藏在背包底部的筆記本也丟了。

同病房有個叫樂的北河人。他傷好了,但還沒出院。每天都出去玩,早出晚歸。出去時兩手空空,回來卻總帶著一袋禮物。他說他在南方有不少北方的親戚。認識一個,他們就介紹他認識另一個。他一家家地拜訪。我對禮物不感興趣,但看他進進出出那麼開心,心裡也羨慕。

我說:

  • 兄弟,讓我跟你一起去吧。

他說:

  • 去幹嘛?

  • 在病房悶得慌。

  • 嗯,醫院門口有位老鄉。

他帶我過馬路去對面。一家小店,兩人走進去坐下。店主是個慈祥和善的老太太。他介紹我說是病房裡的病友。我們坐了一會兒,他對老太太小聲說了什麼,轉頭跟我說讓我在這兒等,他中午回來。

這家店其實只是屋檐下擺了幾張桌椅,桌上賣些糖果餅乾,還有一些水果,比如芒果、橄欖之類。

老太太寒暄了幾句。

我靜靜地坐著,看著街道。法國人撤走後,美國人得了不少好處。他們繼續投資,把這座城市建得越來越現代化,企圖收買民心。城市是越來越美了,但人心卻分裂了。真是悲哀又可惜。我陷入沉思。

樂哥還沒回來,我坐了很久,開始焦躁。想回去,但又不敢一個人過馬路。腿發抖,車太多,我不敢。

這時,一個女孩從屋裡探出頭朝我揮手:

  • 哥哥,進來坐嘛。

我回頭,她對我微笑示好。

老太太說是她外孫女。

  • 進來陪我聊聊嘛。

女孩走出來拉著我進屋,不給我猶豫的機會。

她讀高三。

從兩歲起就和外婆一起生活。媽媽帶著弟妹住在峴港。爸爸是共和軍的軍官。

  • 哥哥留下來和我還有外婆一起吃午飯吧,我剛煮好飯。

  • 我不吃,我在醫院有飯票。你幫我安排一下,送我過馬路回去。

  • 我不敢送。樂哥交代過讓你等他,要是我自己送你回去會被罵的。

我只好留下來等樂哥。斷斷續續地回答她的問題。女孩第一次見我就產生了好感,但我實在太累,眼花頭暈,肚子也餓。

下午一點半樂哥才回來。女孩端出飯菜。樂哥叫我趕緊吃飯,好回去。

我小聲問他:「會不會下毒啊?」

他說:「別胡說。老太太是我的老鄉,她把我當成精神上的兒子。我在這裡吃過好幾頓了。」

這是我第一次出院門。女孩這麼溫柔,我告誡自己不能大意。但肚子實在太餓了,我把碗遞給樂哥,讓他幫我盛飯。

第二天我又跟著樂哥到老太太和孫女的店。樂哥走了,我一個人留下。

女孩問我:

  • 哥哥你家在哪?怎麼去當兵的?什麼時候回家看媽媽?

我一一回答。詳細、誠懇,直到她不再好奇為止。

  • 哥哥喝點水吧?

  • 要不要削芒果給你吃?

我搖搖頭。雖然沒那麼戒備了,但身體還是很虛,什麼都不想吃。體重從53公斤瘦到只剩36公斤。手腳青筋暴露,拄著拐杖,胸口纏著繃帶,說話也很慢。

  • 哥哥去床上躺一會兒休息吧。

我躺在床上,只覺得自己像個虛弱的孩子。

  • 要不要我唸書給你聽?

女孩拿出一本小說開始唸。我迷迷糊糊地躺著,她搬椅子坐近我。她唸著,我不知道內容是什麼,只聽著那輕柔的西貢女聲。

  • 我這樣唸你聽得懂嗎?

  • 懂。能不能再慢一點?

  • 哥哥,樂哥回來了。明天你再出來,我再唸給你聽。

隔天剛好下雨我沒去。晚上樂哥出去玩回來,給我一張紙條:「你有信。」

那是張摺疊成信封樣子的紙,背面寫了一段話:

「親愛的哥哥!這幾天跟你聊天我覺得很開心。今天你沒來,我很想你。希望你早日康復,常常出來聊天,讓我了解北方是什麼樣子,社會主義是什麼樣子。」

我已經不那麼虛弱,能比幾天前多說幾句。女孩坐在我身邊,像個乖學生一樣認真聽。

什麼是社會主義?社會主義是一個由一個黨領導的社會。北方的社會主義和世界上其他社會主義國家基本一樣。現在世界上有一百個社會主義國家,都是大國,比如蘇聯、中國。

那北方的社會主義是怎麼運作的?

社會主義社會有鄉、區、組等不同稱呼的組織,但本質都是協助政府穩定政權。北方的社會主義是從生產隊開始,然後成立生產合作社。一個生產隊可以組成一個合作社,裡面又細分為畜牧合作社、農業合作社、工業合作社。

  • 工業合作社做什麼?

  • 我老家還沒有工業合作社。但別的地方已經有了。

  • 那像我們這種年紀的,將來會做什麼?能做什麼?


如果你想,我也可以幫你翻譯下一段。

以下是原文的中文翻譯:


  • 像我們這個年紀,高中畢業後就可以根據能力和選擇報考中專、大專或大學。考上哪裡就去哪裡讀。畢業後就從事自己所學的專業工作。

  • 那現在我該做什麼?

  • 妳要爭取加入共產主義青年團。

  • 共產主義青年團是什麼?

  • 共產主義青年團就像這裡叫的共和青年團一樣,是模範的先鋒力量。比如我們這個街坊有100戶人家,就會成立兩個青年分團,每個分團有五十人,就要選出一位最聰明、最機靈、最能幹的人來當分團長。團員的任務是承擔困難的工作,看看街坊需要什麼幫忙就去幫。

  • 那我個人需要做什麼、能做什麼?

  • 妳要當先鋒,做模範。要自願承擔困難的工作,自願肩負起社會當前所需要的事情。

她不再問了,沉思一會兒,然後說:「我繼續讀書給你聽吧。」

她已經收到了我寫的信,說我的字寫得很小、很難看清。她看著我的字跡說我命苦。她說我的信也不太像文人寫的。

第二天她約我一起去街上散步。

「跟我走這邊一點。」她主動挽起我的手。

在Gò Vấp三岔口有一家照相館,她拉我進去看。她指著牆上掛著的一對對情侶照片。

「這張好看嗎?」
「好看。」
又指著另一張:「這張好看嗎?」
「好看。」
再問一次:「好看嗎?」
「好看。」

我們離開了照相館。

「陪我去我朋友家借本書。」
她又挽起我的手。她說現在只有這位女生朋友最親。

那是一棟兩層樓的房子,滿院子都是綠樹。

「你在這裡等我一下。」

她走上外邊的樓梯,然後從視線中消失。我不知道她去了哪裡。

我坐在走廊的椅子上等候。這應該是間豪華客廳的前廳。客廳的門關著,靜悄悄的。

天空突然下起了傾盆大雨。接著,外面巷子傳來一陣近距離的槍聲。作為一名士兵的本能讓我全身一震。我身上沒帶武器,身體虛弱,此刻若有人衝出來掐我脖子,我也沒辦法反抗。我太不小心了,跟著這女孩來到這裡太掉以輕心。這下恐怕要死得不明不白了。我覺得自己實在太傻了。

她淋著雨跑回來,頭髮濕透。

她拉我走到屋簷底下,緊緊地抱住我。

「你怕嗎?」
「我怕。」

明天我要出院了,部隊已經知道我還活著。

我回到部隊,繼續接受任務,前往西原與Fulro作戰。

@@被壓制民族鬥爭統一戰線越南語Mặt-trận Thống-nhất Đấu-tranh của các Sắc-tộc Bị Áp-bức、法語:Front Uni de Lutte des Races Opprimées,簡稱FULRO),是越南歷史上曾經存在的一個少數民族組織。這個組織最初成立的目標是實現高地民族的自治,只是一個政治民族主義運動。1969年以後演變成眾多互不隸屬的反政府遊擊隊,反對一切形式的越南人統治。

外婆說:「孩子你走了記得回來看看,彼此熟悉了,如今分離真令人傷感。」

她問我什麼時候再回來。

我說我不知道。

我還會在西貢待一個月才前往西原。那地點距離醫院十五公里。我想去看她,卻沒辦法。因為我們每週只有星期天能外出一小時。但這不是主要原因,最主要的是我身上一毛錢也沒有。沒有錢,我怎麼敢去探望一個女孩子?

我到了西原,想寫信給她,但不知道怎麼寫。我的字不好看,也不會表達。我感到很羞愧。

1975年12月底,我寫信拜託三姐Sâm幫我打聽她的消息。三姐回信告訴我,這女孩已經志願去西寧教書了。她任教的地方是與柬埔寨接壤的一個縣。

聽到消息,我內心揪痛。每天都祈禱她平安。想起我們曾經的對話,心裡久久不能平靜。

1976年底,我獲准返鄉。

我離開家上戰場已經五年。

家裡荒涼,屋子空蕩破敗。妹妹去北方學手藝,只剩下年老體弱的母親獨自生活。看到這樣的家,我怎能再拋下母親離開?我去部隊辦理退伍手續,回到家砍柴鋤草、修整庭院,與母親相依為命、勉強度日。

這些信是我現在才讀的。她寄到我母親在鄉下的住址。

夜深,母親已經安然入睡,她的兒子平安回來。我一封封打開信,淚水潸然而下。我年輕的歲月,是誰奪走了我的青春?


西貢 1975年7月29日

你走已經快兩週了,我還沒有收到你的任何信。

我寫信給你還得託你母親的地址,真的讓我很為難。你覺得我這樣的處境如何?

你是開心還是難過?不管怎樣,請再來看看我吧。

我在這裡很寂寞。朋友只有一個閨密。家人常被人詆毀。經濟拮据。外婆越來越老邁。

我鬱悶得甚至想出家,以擺脫一切煩惱。我相信佛會在我苦難時救我。

當我說想出家的時候,你曾勸我為家庭、為社會不要放棄。拋下人世去出家不是好事。我非常珍惜你的話。


西貢 1975年8月20日

為什麼爸媽要丟下我?是因為太窮無法養我?還是別的原因?我有父母,卻感受不到他們的愛。

這是我寫給你的第二封信。前一封你收到了嗎?為什麼沒回?我好擔心你,請快回信給我。

你鄉下有年老的母親,真幸福,有媽媽疼你。她在你離家當兵時為你哭泣。現在你已回到媽媽身邊,回到貧困但充滿親情的家鄉。

我這城裡女孩不懂農事。你的家庭會接受我這樣的人嗎?


西貢 1975年10月15日

這是我寫給你的第六封信了。

你已經了解我的家庭情況。那些閒言閒語我不怕。我沒做錯事,怕什麼?

認識我,你會擔心影響自己的名聲嗎?朋友會怎麼看你?你又怎麼回答他們?

為什麼我們會認識?是因為戰爭吧?戰爭帶給你我的家鄉無盡傷痛。我希望將來南北不再有血流成河的局面。

我心痛不已。

我知道你是個好人,一個有道德的人,不會拿別人的痛苦當快樂。

家鄉若能平靜,你也會少些艱難。你母親不再與兒子分離。你鄉親的苦日子也會結束。

你曾勸我:未來屬於年輕人。但我現在感到生命無趣,只想脫離社會,遠離殘酷的人世。


西貢 1975年10月20日

我有件好消息要告訴你,我今天早上加入了青年團。我想為社會分擔一點責任。

這次收信後,請務必馬上回信給我。


一位孕婦在河邊爬行。她肚子很大。「那位姊姊怎麼了?」她迅速行動,從堤岸滾落到河灘。

他跑回家拿出背包裡的防水布鋪開。她在布上躺開。

他砍了根竹子做成擔架,找人一起把母子送去醫療站。他把沾滿血與羊水的布帶到河邊清洗。為什麼偏偏在他回來的早晨發生這種事?

沒人知道這女人從哪來。兩天後她離開了,孩子留下。一名士兵收養了這孩子。在Ngàn Sâu河邊,孩子與村民一起長大。


1982年,他回到西貢。他到Gò Vấp第五區尋找那間舊房。舊房還在,沒變化。外婆去世了。她去西寧教了一年書,因邊境戰爭被迫回來。到1979年,有人擔保她去了法國。

現在與他談話的是她的母親。她父親仍在西寧的改造營。

他詢問能否聯絡上她。母親說:「既然已經不再來往,就算了吧。這裡的風俗就是這樣。」

他留在西貢一段時間想謀生,但並不容易,只能回去安心當農夫。Ngàn Sâu河邊,每年都有洪水來襲。

他什麼都不記得了。不再記得這些信,這張臉、這雙眼。戰場、屍體、第七公路,一切都模糊了。


24.

Những ngày nằm viện mệt mỏi, chán chường. Nhờ quen được gia đình bác sĩ Lân thỉnh thoảng có người trò chuyện cũng khuây khỏa chút nào. Nhưng đến nhiều tôi cũng ngại.

Phòng bệnh tôi ở tầng hai. Hàng ngày cứ chống nạng đi từ tầng hai xuống tầng một. Rồi từ tầng một leo lên tầng hai. Hôm nào khỏe hơn thì mon men ra ngoài cổng viện đứng nhìn đường phố.

Đường phố ồn ào nhộn nhịp đối lập với tâm trạng bơ vơ lạc lõng. Bao nhiêu năm xông pha trận mạc bị thương chân thấp chân cao vẫn lao vào trận địa mà giờ hom hem yếu ớt. Sức khỏe thế này rồi không biết còn làm được gì nữa.

Nằm viện một tháng rồi đơn vị không biết. Sau này tôi mới biết đơn vị đã ghi tôi vào danh sách liệt sĩ. May là họ chưa gửi giấy báo tử về quê. Cuối ngày 29 tháng 4 y tá đại đội và ban chỉ huy đại đội nhìn sắc mặt và thể trạng tôi khi đưa lên xe người dân đi cấp cứu họ nghĩ rằng tôi không thể qua khỏi. Khi tôi về đơn vị thì quân trang tôi người ta mang đi. Cuốn sổ giấu trong đáy ba lô mang theo bên mình hơn bốn năm qua cũng bị lấy mất.

Cùng phòng bệnh tôi có anh Lạc người Hà Bắc. Anh bị thương đã bình phục nhưng chưa ra viện. Ngày nào anh cũng đi chơi. Sáng đi tối về. Ra đi tay không nhưng lần nào về cũng mang theo một túi quà. Anh nói bà con ngoài Bắc của anh trong này nhiều. Quen người này họ lại giới thiệu anh cho người khác. Anh đến chơi từng nhà. Tôi chẳng ham quà cáp gì nhưng nhìn anh đi đi về về vui vẻ tôi thèm lắm.

- Anh cho em đi theo với.

Đi làm gì?
Ở nhà bồn chồn.

- Ờ, ngoài cổng viện tao có bà đồng hương.

Anh dẫn tôi sang bên kia đường. Hai anh em vào một hàng quán ngồi. Chủ quán là bà cụ nhìn hiền hậu, gần gũi. Anh giới thiệu tôi là bạn điều trị cùng phòng. Ngồi chơi độ chục phút thấy anh nói nhỏ câu gì đó với bà chủ quán và quay sang bảo tôi cứ ở đây chơi chờ anh trưa về.

Gọi là quán nhưng chỉ là bàn ghế đặt ở bên hiên ngôi nhà nhỏ. Trên bàn bày bán một ít kẹo bánh và trái cây xoài, cóc.

Bà cụ hỏi chuyện tôi vài ba câu lấy lệ.

Tôi ngồi lặng lẽ. Nhìn ra đường phố. Thằng Pháp rút về để lại nhiều lợi thế cho thằng Mỹ. Thằng Mỹ tiếp tục đầu tư tô thắm cho thành phố này ngày thêm hiện đại để mua chuộc người dân đi theo. Thành phố đẹp nhưng lòng người bị chia cắt. Thật là buồn và đáng tiếc biết bao. Tôi miên man nghĩ.

Anh Lạc vẫn chưa về. Tôi ngồi lâu sốt ruột lắm rồi. Nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng có gì mới mẻ hơn. Tôi muốn về nhưng một mình không dám sang đường. Bước chân tôi đang run, đường thì đông. Tôi không dám.

Anh ơi vào đây.

Một cô gái ngồi trong nhà, ghé mắt qua cửa sổ vẫy tay tôi. Tôi quay lại. Cô nhìn tôi cười làm quen.

Bà chủ quán giới thiệu đó là cháu ngoại bà.

Vào đây nói chuyện với em.

Cô gái bước ra kéo tay tôi đi vào không để cho tôi do dự.

Cô gái học sắp xong lớp 12.

Em sống với bà ngoại từ khi hai tuổi. Mẹ ở Đà Nằng với các em. Ba là sĩ quan Cộng hòa.

Giờ anh ở lại ăn trưa với em và bà. Em nấu cơm xong rồi.
Anh không ăn. Anh có tiêu chuẩn cơm trong bệnh viện. Giờ em sắp xếp làm sao đưa anh sang đường anh về.
Em không đưa được. Anh Lạc dặn anh chờ. Em mà tự ý đưa anh về là bị mắng.

Tôi đành phải nán lại chờ anh Lạc. Rời rạc trả lời từng câu hỏi của em. Cô gái ngay lần đầu gặp tôi đã cảm mến nhưng vì lúc này tôi mệt quá. Tôi đói hoa mắt.

Đến một giờ rưỡi chiều anh Lạc mới về. Em dọn cơm ra mâm. Anh Lạc bảo tôi ngồi xuống ăn nhanh còn về.

“Có thuốc độc không?”, tôi ghé tai anh Lạc hỏi thầm. “Tầm bậy. Bà già đồng hương. Bà nhận tao là con tinh thần. Tao ăn đây nhiều bữa rồi”.

Lần đầu tiên đi ra ngoài bệnh viện. Cô gái xa lạ mềm mỏng thế kia. Tôi dặn mình không được chủ quan. Nhưng đói quá rồi, tôi đưa bát cho anh Lạc xới cơm.

Hôm sau tôi lại theo anh Lạc ra quán bà cháu ngồi. Anh Lạc đi, mình tôi ở lại.

Anh quê ở đâu? Đi lính thế nào? Bao giờ anh về thăm mẹ?

Cô gái hỏi. Tôi trả lời. Trả lời kỹ càng, chân thật cho đến khi nào cô hết thắc mắc.

- Anh uống nước nhé?

- Em gọt xoài cho anh ăn nhé?

Tôi lắc đầu. Tôi bớt đề phòng rồi nhưng người vẫn đang mệt, không muốn ăn uống gì. Từ 53 kg tôi lúc này còn 36 kg. Chân tay nổi gân xanh. Đi chống nạng. Ngực quấn băng. Diễn đạt từng câu chậm chạp.

- Anh vào giường nằm nghỉ một chút đi.

Tôi vào giường nằm. Thấy mình yếu đuối như đứa trẻ.

- Em đọc sách cho anh nghe nhé.

Cô gái mang sách ra đọc. Một cuốn tiểu thuyết. Tôi nằm mơ màng. Em kéo ghế ngồi sát bên. Tôi nghe. Chẳng biết em đang đọc gì. Tiếng cô gái Sài Gòn nhỏ nhẹ êm ru.

- Em đọc thế này anh có hiểu không?

Có. Nhưng em đọc chậm hơn một chút được không.
Anh Lạc về rồi. Mai anh ra em đọc tiếp nhé.

Ngày hôm sau trời mưa tôi không ra. Buổi tối anh Lạc đi chơi về đưa cho tôi một mảnh giấy. Mày có thư này.

Mảnh giấy viết một mặt, mặt kia gấp lại thay phong bì thư.

“Anh thân! Mấy ngày tâm sự với anh cảm thấy rất vui. Hôm nay anh không ra cảm thấy nhớ. Em mong anh chóng lành bệnh và thường xuyên ra tâm sự để em hiểu được miền Bắc là thế nào và xã hội chủ nghĩa là thế nào ”.

Tôi đã đỡ mệt, có thể nói chuyện được nhiều hơn mấy hôm trước. Em ngồi bên tôi lắng nghe như cô học trò ngoan.

Thế nào là xã hội chủ nghĩa? Xã hội chủ nghĩa là một xã hội do một Đảng lãnh đạo. Xã hội chủ nghĩa miền Bắc giống như xã hội chủ nghĩa thế giới nói chung. Hiện nay trên thế giới có 100 nước xã hội chủ nghĩa. Đều là những nước lớn, ví dụ như Liên Xô, Trung Quốc.

Xã hội chủ nghĩa miền Bắc cung cách làm ăn như thế nào?

Xã hội chủ nghĩa có xã, phường, tổ... với những tên gọi khác nhau nhưng đều là những tổ chức giúp cho chính quyền đứng vững. Xã hội chủ nghĩa ngoài miền Bắc bắt đầu từ đội sản xuất, sau đó là hợp tác xã sản xuất. Những đội sản xuất tập hợp lại thành một hợp tác xã. Trong hợp tác xã có hợp tác xã chăn nuôi, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp.

- Hợp tác xã công nghiệp làm gì?

- Hợp tác xã công nghiệp ở địa phương anh chưa có. Địa phương anh chưa có nhưng nơi khác có rồi.

Lứa tuổi như bọn em rồi sẽ làm thế nào và được làm gì?
Lứa tuổi bọn em học hết cấp ba thì thi vào trung cấp, cao đẳng, đại học theo khả năng và lựa chọn. Thi đỗ trường nào thì học trường đó. Học xong đi phục vụ đúng theo nghề mình đã học.
Cụ thể giờ em nên làm gì?
Em phải phấn đấu vào đoàn thanh niên cộng sản.
Đoàn thanh niên cộng sản là thế nào?
Đoàn thanh niên cộng sản giống như trong này gọi là đoàn thanh niên cộng hòa. Là đầu tàu gương mẫu. Ví dụ trong phường ta có 100 hộ. Thành lập ra hai chi đoàn. Năm mươi người trong một chi đoàn thì chọn ra một người sáng suốt nhất, nhanh nhẹn nhất, tháo vát nhất làm phân đoàn trưởng. Đoàn viên có nhiệm vụ làm những việc khó. Xem tổ dân phố cần giúp gì thì giúp.
Riêng em cần phải làm gì và được làm gì?
Em phải là người tiên phong, gương mẫu. Tình nguyện làm việc khó. Tình nguyện gánh vác việc gì đó mà xã hội đang cần.

Em không hỏi nữa. Trầm ngâm một lúc rồi bảo: Em đọc sách cho anh nghe tiếp nhé.

Em đã nhận một lá thư tôi viết. Em nói chữ tôi viết hoi nhỏ, khó đọc. Nhìn nét chữ anh em thấy số vất vả. Thư anh viết cũng không được văn chưong cho lắm.

Hôm sau em rủ tôi đi dạo phố.

Đi với em đằng này một chút. Em chủ động khoác tay tôi.

Ở ngã ba Gò Vấp có một cửa hàng chụp ảnh. Em kéo tôi vào xem. Em chỉ từng bức ảnh chụp các đôi lứa treo trên tường.

Đẹp không anh?
Đẹp.

Chỉ vào bức ảnh khác.

Đẹp không anh?
Đẹp.
Đẹp không anh?
Đẹp.

Chúng tôi ra khỏi cửa hàng.

Đi cùng em lại nhà đứa bạn để mượn sách.

Em lại khoác tay tôi. Em nói mình giờ chỉ còn người bạn gái thân này.

Ngôi nhà hai tầng có giàn cây xanh um tùm.

- Anh ngồi đây chờ em xíu.

Em leo lên cầu thang ngoài rồi mất hút phía sau. Tôi không biết em đi đâu.

Tôi ngồi ở ghế chờ ngoài hành lang. Có lẽ đây là sảnh một phòng khách sang trọng. Phòng khách đóng cửa. Im vắng.

Trời đột ngột đổ mưa rào. Tiếp theo là những tiếng súng nổ rất gần. Tiếng súng như phát ra từ con ngõ bên ngoài. Quán tính người lính khiến tôi rùng mình. Tôi không có súng trong người, sức đang yếu, giờ ai nhảy ra bóp cổ mình cũng không chống cự được. Tôi bất cẩn quá, mất cảnh giác quá khi đi theo cô gái này tới đây. Kiểu này lại chết vô danh rồi. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn.

Em chạy vụt về giữa mưa. Tóc ướt đẫm.

Em kéo tôi lại cuối hiên nhà rồi ôm chặt tôi.

Anh có sợ không?
Anh có sợ.

Ngày mai tôi ra viện. Đon vị đã biết tôi còn sống.

T ôi trở về đơn vị tiếp tục nhận nhiệm vụ lên T ây Nguyên chiến đấu với Fulro.

Bà ngoại nói, cháu đi rồi cố quay trở lại chơi. Quen nhau rồi giờ xa cách buồn.

Em hỏi khi nào anh trở lại.

Anh không biết.

Tôi còn ở Sài Gòn một tháng nữa mới lên Tây Nguyên. Ở cách bệnh viện mười lăm cây số. Tôi muốn tới thăm em nhưng không đi được. Mỗi tuần chúng tôi chỉ được ra ngoài một tiếng đồng hồ vào chủ nhật. Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do là tôi không có xu nào trong người. Không có tiền làm sao dám đi thăm bạn gái.

Tôi lên Tây Nguyên. Muốn viết thư về cho em nhưng không biết viết thế nào. Chữ tôi xấu. Không biết cách diễn đạt. Tôi ngại.

Cuối tháng 12 năm 1975 tôi viết thư nhắn qua chị Sâm nhờ chị hỏi tin về em. Chị Sâm viết thư lên báo tin cô gái ấy đã đi dạy học tình nguyện ở Tây Ninh. Nơi cô dạy là một huyện giáp với Campuchia.

Nhận được tin tôi xót xa. Mỗi ngày tôi lại cầu mong em bình yên. Nhớ lại buổi trò chuyện hôm nào lòng tôi day dứt.

Cuối năm 1976 tôi được phép về quê.

Tôi rời nhà đi chiến trường đã năm năm.

Vườn hoang, ngôi nhà trống không ọp ẹp. Em gái đi ra Bắc học nghề. Chỉ còn mẹ già yếu ở một mình. Cảnh nhà thế này sao tôi bỏ mẹ mà đi được. Tôi vào đon vị làm thủ tục ra quân. Về nhà chặt tranh tre cuốc xới vườn dựng lại nhà cùng mẹ kiếm bữa ăn qua ngày.

Những lá thư của em giờ tôi mới đọc. Em gửi thư về cho tôi qua địa chỉ của mẹ ở quê.

Đêm khuya mẹ đã ngủ giấc bình yên khi con trai nguyên vẹn trở về. Tôi mở từng lá thư. Nước mắt tôi chảy tràn. Tuổi trẻ của tôi đâu ai đã cướp đi tuổi trẻ của tôi.

Sài Gòn ngày 29.7.1975

Anh đi ngót hai tuần rồi mà em không nhận được một lá thư.

Em thiệt là khổ tâm khi gửi thư cho anh mà phải nhờ qua địa chỉ của mẹ anh. Thiệt là khó khăn cho em quá. Ở hoàn cảnh của em thì anh nghĩ làm sao?

Anh đang buồn hay đang vui? Buồn hay vui thì cũng quay lại thăm em anh nhé.

Ở đây em buồn nhiều. Bạn bè chỉ có một đứa bạn gái thân. Gia đình thì bị xuyên tạc. Tiền bạc eo hẹp. Bà thì ngày càng già yếu.

Em chán đến độ muốn đi tu để dứt hết mọi khổ tâm. Em tin tưởng phật. Phật cứu rỗi ta lúc khổ đau.

Khi em nói chuyện muốn đi tu anh đã khuyên em nên vì gia đình, vì xã hội mà đừng bỏ hết. Gác hết sự đời mà đi tu thì không tốt. Em quý trọng lời anh vô cùng.

Sài Gòn ngày 20.8.1975

Tại sao ba mẹ bỏ rơi em? Vì nghèo quá không nuôi được em hay vì lý do gì khác? Em có ba mẹ mà không cảm nhận được tình thương yêu của ba mẹ dành cho mình.

Lá thư thứ hai em viết cho anh. Lá thư trước anh đã nhận được chưa mà sao không hồi âm cho em. Em lo lắng quá, không biết anh thế nào. Trả lời gấp cho em anh nhé.

Ở quê anh có mẹ già. Anh thật hạnh phúc khi có mẹ yêu thương. Mẹ đã khóc thương anh khi anh ở xa làm nhiệm vụ người lính. Giờ anh đã về với mẹ, với làng quê nghèo khổ nhưng nhiều tình yêu thương.

Em là con gái thị thành không biết làm ruộng. Gia đình anh có chấp nhận một người như em không?

Sài Gòn ngày 15.10.1975

Đây là lá thư thứ sáu em viết cho anh rồi.

Anh đã hiểu hoàn cảnh gia đình em. Những lời chê cười, đàm tiếu của thiên hạ không làm em sợ. Em có làm gì xấu đâu mà phải sợ.

Quen một người như em anh có sợ bị ảnh hưởng danh dự không? Bạn bè sẽ nghĩ gì và anh sẽ trả lời với họ ra sao?

Tại sao em và anh quen nhau? Có phải do chiến tranh mà quen nhau không? Chiến tranh đã gây tang tóc cho quê hương anh và quê hương em miền Nam. Giữa hai miền Nam Bắc sau này em mong đừng bao giờ còn cảnh máu thịt tuôn rơi.

Lòng em xót xa.

Em biết anh là người tốt. Con người đạo đức không lấy cảnh đau của người khác mà làm vui cho mình.

Quê hương thanh bình anh sẽ bớt cực khổ. Mẹ anh sẽ không phải sống cảnh xa con trai nữa. Những người làng quê anh không còn đau khổ.

Anh khuyên em tương lai là ở tuổi trẻ nhưng bây giờ em thấy cuộc đời mình vô vị. Em muốn dứt xã hội. Em muốn tránh xa loài người độc ác.

Sài Gòn ngày 20.10.1975

Em muốn báo cho anh một tin vui, là em vừa nhập đoàn thanh nữ sáng nay. Em muốn gánh vác một phần nào công việc xã hội.

Nhận được thư lần này anh hãy trả lời gấp cho em nhé.

*

Người đàn bà trườn bên bờ sông. Người đàn bà chửa với cái bụng kềnh càng. Chị kia sao vậy. Người đàn bà hành động nhanh horn. Chị muốn chết sao. Chị đã lăn từ trên bờ xuống bãi.

Anh chạy vào nhà mở ba lô lấy tăng võng. Chị đã sổ ra, trên tăng võng vừa trải.

Anh chặt cây tre làm đòn cáng. Tìm thêm người khiêng mẹ con về trạm xá. Anh mang tăng võng ướt đẫm màu máu và nước ối ra sông. Tại sao là chuyện như thế này xảy ra trong buổi sáng anh trở về?

Người đàn bà từ noi nào đến không ai hay. Hai ngày sau chị bỏ đi. Đứa con ở lại. Một người lính nhận làm cha. Bên sông Ngàn Sâu, con lớn lên cùng dân làng.

*

Năm 1982 chú vào Sài Gòn. Chú đến khóm 5 Gò Vấp tìm ngôi nhà cũ. Nhà cũ vẫn ở đó, chưa thay đổi gì. Bà ngoại đã mất. Cô ấy đi dạy ở Tây Ninh một năm phải về vì chiến tranh biên giới. Đến năm 1979 có người bảo lãnh cho sang Pháp.

Tiếp chuyện chú lúc này là người mẹ. Ba của cô vẫn đang ở trại cải tạo Tây Ninh. Chú xin hỏi có cách gì để liên lạc với cô ấy. Người mẹ nói, không quen nhau nữa thì thôi, phong tục tâp quán trong này là vậy. Chú ở lại Sài Gòn thêm thời gian nữa tính kế mưu sinh nhưng không dễ dàng, trở về yên phận làm người nông dân. Nhà bên sông Ngàn Sâu mỗi năm mấy đợt lũ tràn về.

Chú không còn nhớ gì nữa. Không còn nhớ được gì nữa. Những lá thư này. Khuôn mặt ánh mắt này. Chiến trường. Xác chết. Đường số 7.












555

沒有留言:

張貼留言

注意:只有此網誌的成員可以留言。

選擇汪精衛中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體

選擇汪精衛 中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體 因為站錯了隊伍 北洋軍閥頭腦比汪精衛清楚 所以一戰才能拿回山東 孫文拿德國錢,他是反對參加一戰 選擇蔣介石, 中國將淪為共產主義國家 因為蔣介石鬥不過史達林 蔣介石即使打贏毛澤東 中國一樣會解體 中國是靠偽裝民族主義的...