文化
《請別說出我的名字》與戰爭的哀愁
2024年4月21日 10:27
(來源:vhds.baothanhhoa.vn)
「我生於1979年,從小就看著叔叔伯伯、爺爺奶奶整天在田裡勞作。他們彼此談論的話題全是農事。就在我家花園旁,曾是一個大型彈藥庫。一枚磁性炸彈曾掉落在鄰居**Nhin奶奶(bà Nhin)**家中,當場炸死四人。」
「我父母那個年代,兒時夢中總是浮現飛機低空投彈的畫面,炸彈落在田野、村路和梯田上。夜裡下田幹活得偽裝到腰部,頭上也要偽裝。今天提到哪個事件、說到誰家、談起村中誰的往事⋯⋯我就像個外人,來到這裡探尋⋯⋯」這是**潘翠霞(Phan Thúy Hà)**的自述——她生於戰後,是《請別說出我的名字》(Đừng kể tên tôi)這本書的作者。
《請別說出我的名字》是一些關於戰爭的故事,同時也是一項要求、一個前提:人物願意講述自己的軍旅人生,但條件是不具名。因為他們比誰都清楚,還有太多戰友不在人世。「請別說出我的名字,因為與十八、二十歲就陣亡的戰友相比,我能活到今天,還有兒孫,已是天大的幸運了。」這就是戰爭的哀愁與傷痛。「他們不說的話,就只是千千萬萬個普通人。但一旦開口,真相就如山壓頂,痛苦難當。」——Thái Kế Toại如是說。因此,在講述一切之後,他們又願意署名並留下地址。他們的目的並非提醒,而是想承擔身為親歷者的責任,述說戰爭的真實面貌。
書中的「我」是21個人,交織出超過21段回憶。
「那時的我」是天真且懷抱理想的少年與少女;
「現在的我」則在回憶那些戰爭的陰影與曾被埋藏的悲傷。
為了能入伍,有人謊報年齡:「我穿著輪胎做的拖鞋,對量體重的衛生員說:『算我的鞋一起吧。』走路時撿兩塊石頭塞進褲袋。」這就是那些渴望上戰場的青少年們的小伎倆。
更重要的是他們的戰鬥精神:「先去訓練熟悉一下,再過幾年就能直接參戰⋯⋯」
可是在戰場上,「人可以躲炸彈嗎?不行,只能希望炸彈繞過人。看到太陽升起就知道自己今天還活著。」
這看似樂觀的理由,實際上是那個年代青年對和平的渴望。
戰爭的殘酷遠超想像。譬如那位戰士阮文政(Nguyễn Văn Tranh),擔任營副,左臂被炮彈碎片削斷,只剩一塊皮和幾條筋連著。他的聯絡兵正在替他包紮時,他卻命令營聯絡兵Kiều Duy Tý立刻把那條垂掛的手砍斷,以利處理。
還有人「清晰地聽見自己的血在背後‘滋滋’流淌。剛穿上的衣服還沒被汗浸濕,血就沒滲進布裡,而是順著背部流下,聚成一團卡在腰間一側」。
然而,比炸彈更殘酷的是,有人死於飢餓、瘧疾,甚至猛獸之口。
即使如此,
當死亡逼近,士兵們最深的夢想竟然只是回家與母親和妹妹吃一頓飯,能再呼吸一次故鄉的空氣。
但這個簡單的夢想對許多人來說,卻是無法實現的,因為他們還未回家,就已為國捐軀。
每場戰鬥的殘酷相似,但戰後的創傷卻因人而異。
有些人幸運地活著回來。
「撿回一命了。我們就像淘米剩下的米,來回篩選還留在簸箕裡。該慶祝。今天還能這樣坐在一起,真該開心。」
但還有更多人,一生被痛苦與疾病纏身,甚至影響到下一代。
讀到《美軍防空洞,現在是我逃避丈夫發病的地方》這一章,有誰能不動容?
一名十四歲的小戰士,曾被剝奪擊落美機與俘虜美國飛行員的功勞。
後來他入伍,在1968年春節初二夜戰中被彈片擊中太陽穴,導致後遺症。
和平之後,他時常發病,高喊「衝鋒」奔跑,看到家人就揍,有時甚至放火燒自家。
更悲慘的是,他的兒子也患了同樣的病;兒媳成了另一個「母親」,承受相同的苦。而當年的防空洞,如今成了她們母子每逢他發病時的避難所。
有人在殘破不堪中歸來,妻子三次懷孕流產。「第四次生下沒嘴的孩子,只活了一天就離開,像是為了減輕父母的痛苦。第五次生的孩子,少了一根手指、一根腳趾——這隻手曾撿回多少戰友遺體。」
戰爭就是這樣,損失巨大,痛苦無比,後果無窮。
也沒有什麼「打仗的職業」,因為「那個年代的年輕人,幾乎都跟你們一樣。
如果我在你那個年代、住在你那個村,我也一樣會去當兵。」
但當國家需要時,他們仍會挺身而出。「伯伯,若戰爭再來,您會讓孩子上戰場嗎?
——會的。
——可您經歷過那麼多苦,重病住院,每月只靠160萬越盾的病殘津貼過活
——沒辦法。敵人來了就得打。不打就亡國。保衛祖國,無論何時都是一種榮譽。」
最動人的是,即使經歷過無數血淚,**胡伯伯(Chú Ngọc)這些「胡志明部隊的士兵(Bộ đội Cụ Hồ)」仍保有慈悲心,甚至稱對方為「對手」(đối phương)而非「敵人」。正如他在《淵水之人(Người bên sông Ngàn Sâu)》一章中說:「現在如果能見到那兩個在同杜戰役(trận Đồng Dù)**中救過我的敵兵,我一定立刻坐車去拜訪他們。」
我讀這本三百多頁的書,不知流了多少次淚,也多次不得不停下來。因為戰爭雖然過去快五十年,創傷仍在,那些故事仍刻印在他們、他們的孩子身體與心靈中。這些痛苦的故事同時也令人驕傲,他們讓我們這一代人不僅佩服,更心懷感恩。
作者**潘翠霞(Phan Thúy Hà)坦言:「我原本不知道該怎麼寫,直到遇見每一位人物。是他們創造了語調與情節。他們帶著我走,每一次見面,我都很緊張,不知道今天會聽到什麼故事。我完全無法預想。」那種「無法預想」的感覺確實存在。我們這一代出生於戰後,不聞硝煙,不知生死交界,但透過那些質樸的故事——「如機器般記錄,真實到底,不加也不減,不美化也不醜化,粗糙得像現實本身」——正如陳輝光(Trần Huy Quang)**所說,我們多少理解了他們的犧牲。
因為,誰能想像出如此殘酷?戰爭的赤裸與真實從來不是玩笑。更重要的是,作者想傳遞給當事人與讀者的訊息是:「沒有人、沒有什麼,會被遺忘。」
文/Kiều Huyền(翹玄)
如需整理為可投稿格式、摘要、或加註史料,可再告訴我。
Văn hóa
“Đừng kể tên tôi” và những nỗi buồn chiến tranh
10:27 21/04/2024
(vhds.baothanhhoa.vn) - “Tôi sinh năm 1979, lớn lên đã nhìn thấy các chú, các bác và ông bà mình sớm trưa chiều tối trên cánh đồng. Câu chuyện họ nói với nhau là mùa vụ. Sát khu vườn nhà tôi đang ở từng là một kho đạn lớn. Một quả bom từ trường đã rơi xuống giữa nhà bà Nhin ở bên cạnh kho đạn, giết chết 4 người
Trong giấc ngủ em thơ thời cha mẹ tôi là chập chờn hình ảnh máy bay thả bom rơi là là trên cánh đồng, trên đường làng, trên nương bãi. Đi làm đồng ban đêm ngụy trang ngang thắt lưng, ngụy trang trên đầu. Hôm nay kể tới sự kiện nào, nói tới ngôi nhà ai, nhắc chuyện quá khứ một người làng...; tôi như người từ nơi xa đến tìm hiểu...”. Đó là một tự sự của chính tác giả Phan Thúy Hà, một người sinh ra sau chiến tranh và là tác giả của cuốn sách “Đừng kể tên tôi”.
“Đừng kể tên tôi” là những câu chuyện chiến tranh, đồng thời cũng là yêu cầu, là điều kiện để các nhân vật kể về đời lính của mình. Vì hơn ai hết họ biết đồng đội của họ còn rất nhiều và không ít trong số đó đã ra đi. “Xin đừng kể tên tôi, vì so với đồng đội mười tám, hai mươi, mình được sống đến hôm nay, có con cháu vậy là may mắn rồi”. Nỗi buồn chiến tranh là vậy, nỗi đau chiến tranh cũng là vậy. "Họ không kể ra thì họ chỉ là muôn vàn người bình thường. Nhưng họ đã kể thì sự thật bỗng nặng trĩu, quằn quại, đau đớn" (Thái Kế Toại). Vì thế, sau khi kể ra tất cả, họ lại đồng ý để tên của mình và địa chỉ rõ ràng. Không phải với mục đích nhắc nhớ mà họ muốn gánh lấy trách nhiệm của người trong cuộc, kể về sự thật bộ mặt chiến tranh.
“Tôi” trong cuốn sách này là 21 người với hơn 21 câu chuyện, những dòng hồi ức đan xen nhau. “Tôi” của ngày ấy là những chàng trai, cô gái còn hồn nhiên và nhiều lý tưởng. Tôi của ngày hôm nay kể lại “những góc khuất của chiến tranh và cả những chuyện đau lòng còn giấu kín”.
Để được vào bộ đội, họ phải khai sinh tăng tuổi, “tôi đi dép lốp, nói với anh y tá cân đo rằng cứ tính cho em cả dép. Trên đường đi nhặt hai cục đá cho vào hai túi quần”. Cái “mưu mẹo của những đứa trẻ mới lớn khao khát ra trận” là thế. Nhưng hơn hết là tinh thần chiến đấu “cứ đi tập luyện cho quen. Vài năm nữa cứng cáp chiến đấu trực tiếp là vừa...”. Đi chiến trận "bom tránh người chứ người sao tránh được bom. Tắt mặt trời biết là hôm nay mình còn sống", mà vẫn cần phải làm quen? Cái lý do đó có vẻ lạc quan tếu, nhưng lại là tâm trạng chung của những thanh niên khát khao hòa bình.
Chiến tranh khắc nghiệt và ngoài sức tưởng tượng của con người. Đó là câu chuyện viết về người lính Nguyễn Văn Tranh, tiểu đoàn phó đã bị một mảnh pháo cắt đôi ống tay trái. “Cánh tay dính vào cơ thể chỉ bằng một mảnh da và cụm gân. Trong lúc đó, tổ liên lạc đang cố gắng băng bó cho anh thì anh ra lệnh cho liên lạc tiểu đoàn là anh Kiều Duy Tý chặt đứt ngay phần lủng lẳng băng bó cho tiện”.
Thậm chí có người “nghe rõ tiếng máu mình đang chảy re re sau lưng. Áo mới mặc chưa thấm mồ hôi lần nào, máu chưa ngấm được vào sợi vải nên trôi theo lưng đọng thành cục nằm giữa và một bên thắt lưng”.
Song, điều nghiệt ngã nơi chiến trường không chỉ có những cái chết vì bom đạn mà họ chết vì đói, vì bệnh sốt rét và cả những con thú ăn thịt.
Dẫu thế nào thì trong những giây phút cận kề của cái chết, đối diện với những hiểm nguy ấy, người lính lại chỉ mơ đến những giấc mơ vô cùng bình dị. Đó là được về nhà ăn với mẹ và em gái một bữa cơm, được về lại hít thở không khí thân thuộc của quê nhà... Nhưng, giấc mơ giản dị ấy lại không dễ dàng để thực hiện, bởi có những người lính chưa kịp về thì đã hy sinh thân mình cho Tổ quốc.
Đi qua chiến tranh, trong mỗi câu chuyện của các nhân vật, mỗi trận đánh có thể giống nhau về tính chất, về sự khốc liệt, nhưng vết thương sau chiến tranh gim lại trong mỗi người, di chứng để lại là hoàn toàn khác nhau.
Có người may mắn sống sót trở về. “Thoát chết" rồi. Bọn mình là gạo ở trên sàng. Quần đi quần lại vẫn trên sàng. Phải ăn mừng. Mừng hôm nay được ngồi với nhau lành lặn thế này. Nhưng còn có biết bao người mang nỗi đau, bệnh tật... đeo đẳng không chỉ với cuộc đời họ mà còn tồn tại ở thế hệ con, cháu.
Đọc câu chuyện “Hầm tránh bom Mỹ. Và giờ hầm là nơi tôi trốn chạy khi chồng lên cơn” có ai mà không xúc động. Đó là chuyện về một người lính, mười bốn tuổi bị cướp công bắn rớt máy bay và bắt được phi công Mỹ. Sau đó thì đi bộ đội. Trong trận đánh đêm mùng 2 Tết Mậu Thân 1968, anh bị một mảnh đạn ghim sâu vào thái dương, khiến ảnh hưởng đến thần kinh sau này. Hòa bình rồi, thỉnh thoảng anh lại lên cơn, cứ hô xung phong rồi chạy, thấy vợ con là đánh, có khi đốt luôn cả nhà mình.
Trớ trêu, người con trai của hai vợ chồng cũng mắc bệnh như anh. Đứa con dâu lại gánh nỗi cay cực như người mẹ. Và, căn hầm ngày xưa tránh bom Mỹ giờ là nơi hai người đàn bà ôm con ẩn nấp mỗi khi chồng họ lên cơn.
Có người thì thân tàn ma dại trở về, vợ ba lần có thai rồi sảy. “Lần thứ tư sinh đứa con không có miệng. Nó chào cuộc đời một ngày tuổi rồi đi cho cha mẹ đỡ dằn vặt. Lần sinh thứ năm là đứa con thiếu một ngón tay thiếu một ngón chân (bàn tay này đã thu nhặt bao nhiêu xác lính).
Chiến tranh là vậy, mất mát nhiều, đau đớn lắm, hậu quả khôn cùng. Cũng không có nghề đánh giặc bởi “Thanh niên lớn lên trong thời đại đó hầu hết ai cũng như các ông. Nếu cháu sinh ra ở thời của ông, sống ở làng quê ông thì cháu cũng vậy thôi”. Nhưng khi đất nước cần, họ vẫn sẽ lên đường. “Bác, nếu chiến tranh lại xảy ra bác có cho các con mình ra trận không? - Có chứ. - Nhưng bác đã trải qua những năm tháng như vậy. Nằm viện triền miên vì những bệnh nặng. Mỗi tháng chỉ dựa vào một triệu sáu tiền bệnh binh” - Phải chấp nhận. Giặc đến là đánh. Không đánh để mất nước à. Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thì thời đại nào cũng vinh dự”.
Cái quan trọng là sau bao nhiêu đau đớn và nước mắt, song, những người lính Cụ Hồ vẫn nhân ái khi nghĩ về “đối phương”. Tôi thích cách dùng chữ “đối phương” mà không phải là “kẻ thù” của Phan Thúy Hà. Đó cũng chính là tâm sự của chú Ngọc (nhân vật trong câu chuyện Người bên sông Ngàn Sâu: “Giờ mà có cách gì gặp được hai thằng lính dìu mình trong trận Đồng Dù thì quý biết bao. Sẽ lên tàu xe đi thăm nhau ngay”.
Tôi đọc cuốn sách hơn 300 trang với không biết bao nhiêu lần nước mắt rơi, và không ít lần phải gấp trang sách lại. Bởi chiến tranh đã lùi xa gần 50 năm nay nhưng vết thương thì vẫn ở đó, những câu chuyện còn in hằn trong trí não, trên da thịt của họ, của con họ... đau đớn mà cũng đầy tự hào, những con người ấy đã khiến thế hệ chúng tôi không chỉ ngưỡng mộ mà thực sự biết ơn.
Tác giả Phan Thúy Hà đã bộc bạch: “Tôi chưa biết sẽ viết như thế nào cho đến khi gặp nhân vật. Nhân vật tạo ra giọng điệu, tạo ra cốt truyện. Nhân vật dẫn dắt tôi đúng theo nghĩa đen. Mỗi khi đi gặp nhân vật tôi khá hồi hộp, không biết hôm nay mình được nghe chuyện gì. Tôi hoàn toàn không hình dung ra được”. Cái cảm giác “không thể hình dung được” là có thật. Chúng tôi sinh ra ở thời hậu chiến, không còn nghe mùi thuốc súng, không biết được lằn ranh sống - chết... nhưng qua những câu chuyện mộc mạc, được “ghi chép, ghi như một cái máy, trung thực đến tận cùng, không thêm bớt, không hư cấu, không đỏ hơn mà cũng không đen hơn, sù sì như sự thật, như cuộc đời” (Trần Huy Quang) chúng tôi hiểu phần nào sự hy sinhh của họ.
Bởi ai có thể hư cấu đến độ khốc liệt như vậy? Sự thật trần trụi của chiến tranh và con người ở trong giai đoạn ấy “đâu phải chuyện đùa”. Hơn hết, điều tác giả muốn gửi đến những người trong cuộc, đến độc giả là thông điệp: “Không ai, không điều gì bị lãng quên”.
Kiều Huyền

沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。