**比它本身的真相還沉重**
**上校 泰繼載(Thái Kế Toại)**
我是戰爭中走出來的人。
在河內一個美麗純淨的秋日早晨,1970年8月24日,這座城市送別了我們那一代人——數千名來自綜合大學、理工大學、師範大學、外語學院、建築學院、經濟學院、機電學院等校的學生,放下筆與書,放下理想、愛情與摯親,奔赴前線。
在那滿是旗幟與鮮花的熱烈氛圍中,幾乎沒人想到,我們這一代最優秀的一批男孩將被投擲進那場進入最激烈階段的戰爭;與勝利一同等待著他們的,是無數悲劇——屬於他們、他們的戀人、他們的父母的悲劇。
我也未曾預見自己的悲劇……直到戰爭結束五年後,我們在學校門口重逢,彼此才從彼此身上看到一幕幕顯而易見的悲劇。
小孩潘翠河(Phan Thúy Hà)的父親,是當年與我一同搭上那輛車出征的青年。他的命運與我緊密交織了兩年——在高射炮的炮座上、在中老邊境的川平原戰場、在第四區的鐵道橋上……如果當初沒有那次出征,三年後他或許已是研究戰爭史的學者。潘文伯(Phan Văn Bá)並未隨我們重返校園。他走入另一所“戰地大學”——又一場邊境戰爭,退伍後回到故鄉河靜省香溪務農。但那場戰爭並未放過他,病魔找上他——那是戰爭的遺毒。他無力抵抗,最終病逝。
在這本書裡,小孩並未書寫其父的故事,也未提及其家族在戰爭中承受的悲劇。其實,他們家還算不算最苦的——鄰里的無數家庭更為悲慘。這些人走進了這本書,成為戰爭中的人物——不是虛構的角色,而是戰爭碎片的重組。
這場戰爭已過去四十多年。許多命運已定,許多創傷已成疤,無論是身體還是心理。許多當事人甚至不願提及自己,更不願留下名字。他們仍覺得自己比那些未能歸來、無影無蹤的數百萬戰友幸運得多。
小孩河(Hà)沒有尋找那些被頌揚的典範人物,而只是記錄下村裡那些與她一同生活的人們。他們若不開口,便只是千萬個平凡人之一。但當他們開口,真相便沉重得令人窒息,扭曲,疼痛。我們才終於理解戰爭的真面目是如此殘酷,人類的命運是如此無常。這本書的份量,來自於它的作者正是這些角色本身。他們與潘翠河一樣,並非為了創作文學。他們只是讓我們明白:**勝利的代價,遠比它的真相還沉重。**
2017年11月
Τ.Κ.Τ.
@@@@
CÁI GIÁ CỦA CHIẾN THẮNG
LỚN HƠN SỰ THẬT CỦA NÓ
Đại tá Thái Kế Toại
Tôi là một con người của chiến tranh.
Vào một buổi sáng mùa thu tuyệt đẹp, tinh khiết của Hà Nội, 24-8-1970, thành phố đã tiễn lứa chúng tôi, hàng nghìn sinh viên các trường đại học Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm, Ngoại ngữ, Xây dựng, Kinh tế, Cơ điện... đã bỏ bút nghiên, bỏ cả khát vọng, tình yêu, người thân ở lại để đi ra mặt trận.
Trong không khí cờ hoa phơi phới ít ai nghĩ rằng hàng nghìn người con trai có thể nói là ưu tú nhất trong thế hệ của chúng tôi đã được ném vào cuộc chiến tranh đang đi vào hồi quyết liệt nhất và cùng với chiến thắng, hàng nghìn bi kịch đang chờ đón họ, người yêu của họ, bố mẹ của họ.
Tôi cũng không nghĩ đến cái bi kịch của mình... Mãi năm năm sau khi cuộc chiến khép lại, gặp nhau trước cửa trường mọi người mới thấy những bi kịch hiển hiện giữa các bạn mình.
Bố cháu Phan Thúy Hà là chàng sinh viên ngồi cạnh tôi trong chuyến xe ra đi hôm ấy. Số phận còn gắn bó chúng tôi hai năm sau nữa, trên mâm pháo cao xạ, chiến trường Cánh Đồng Chum và những cây cầu đường sắt khu Bốn... Lẽ ra, không có cuộc ra đi đó ba năm sau anh đã là một cử nhân nghiên cứu sử học phán xét về cuộc chiến tranh này. Phan Văn Bá không trở về trường đại học cùng chúng tôi. Anh tiếp tục một trường “đại học” khác, một cuộc chiến tranh biên giới nữa rồi xuất ngũ về quê Hương Khê, Hà Tĩnh làm ruộng. Nhưng cuộc chiến tranh đã qua không để bạn sống yên ổn. Bá đổ bệnh, không chống cự được với căn bệnh hiểm nghèo di họa của cuộc chiến.
Trong cuốn sách này Hà không kể về bố cháu, những bi kịch của gia đình cháu gánh chịu từ cuộc chiến. Nhưng nhà cháu chưa khổ bằng bao nhiêu nhà hàng xóm khác. Và họ đã đi vào cuốn sách, thành những nhân vật của chiến tranh, loại nhân vật không phải xây dựng bằng trí tưởng tượng. Cháu chỉ sắp xếp lại những mảnh vỡ của chiến tranh.
Cuộc chiến tranh này đã qua đi hơn bốn mươi năm. Rất nhiều số phận đã an bài. Nhiều vết thương đã thành sẹo. Cả trong tâm lý lẫn cuộc đời. Các nhân vật thậm chí còn không muốn kể về họ, không muốn nêu tên. Họ vẫn thấy mình còn may mắn so với hàng triệu đồng đội đã không trở về hoặc không còn vết tích gì.
Cháu Hà đã không đi tìm những nhân vật trở thành hình mẫu, được tôn vinh mà chỉ ghi chép lại chuyện của những người làng cháu, sống gần cháu. Họ không kể ra thì họ chỉ là muôn vàn người bình thường. Nhưng họ đã kể thì sự thật bỗng nặng trĩu, quằn quại, đau đớn. Chúng ta mới hiểu bộ mặt thật của chiến tranh tàn nhẫn như thế đấy, số phận người là như thế đấy. Đấy là sức nặng của một cuốn sách mà tác giả của nó chính là những nhân vật. Họ cũng như Phan Thúy Hà không chủ ý làm văn chương. Cái giá của chiến thắng lớn hơn sự thật của nó.
Tháng 11. 2017
Τ.Κ.Τ.
**我朋友的伯父是烈士。他於1966年進入南方戰場,直到1976年家人才收到陣亡通知書。**
這十年間到底發生了什麼?
他是怎麼死的?
外祖母記得很多往事,但每當說到與他有關的記憶時,她就會停下來,或者轉而說起別的事。
他的名字成了家中忌諱,不可提及的名字。
外祖母的木箱裡有一封信,是他剛完成訓練、準備進入戰場時寄回家的。信裡報平安,說身體狀況良好,要家人放心。內容與那個年代多數士兵的信件類似。
他們為什麼可以把如此激烈的故事埋藏在心中、獨自承受?
是因為他們是男人?因為他們是士兵?還是,因為他們是越南人?
或是,因為沒有人問?
因為我們從未讓自己成為值得他們訴說的人?
他的夢想是什麼?
他的夢想只是回家與母親和妹妹吃一頓飯,吃完後再回戰場,死也甘願。
我將這句話抄在臉書的狀態上,配上一張照片:一位老兵坐在路旁樹下,點著香煙,沉思著。
「唉,我的伯父啊……這個夢永遠無法實現了。」
我的朋友忍不住感嘆。
朋友催促我寫下來。他想讀,想知道,那些事到底發生了什麼。
叔叔身上還留著四塊彈片。
他掀起衣服讓我摸,那些碎片仍能用手指感覺到。我兩個兒子聽到後都嚇壞了。
原來,一個人可以身帶無數彈片地活著。
叔叔一家有八人參與戰爭。
兩位哥哥因化學毒物重度中毒,一位癱瘓臥床十二年後去世,另一位像乾屍一樣躺在床上十五年未動。
「爺爺,為什麼你們全家都選了這麼危險的工作啊?」我兒子問。
「這不是工作,孩子。沒有人『從事』打仗這個職業。那個年代的青年,大多都是這樣。如果你生在我那個時代、那個村莊,你也會一樣。」
一個剛上完五年級的孩子,是否真的需要清楚知道戰爭的真實模樣?
而我,一位出生在國家已停止戰火的母親與女兒,究竟懂得多少?能對孩子說些什麼?
我幾乎什麼都不知道。
他一邊講述,眼淚模糊了眼眶。那是年邁者在二年級與五年級小孩面前落下的眼淚。
「我會把這些故事寫下來。」我說。
「不要寫出我的名字。」這是我在無數次訪談中聽見最多的一句話。
「不要寫出我的名字。」但接著又會說:「寫完後記得告訴我一聲喔。」
最終,每個人還是同意讓我清楚寫下他們的名字與住址。
不要寫出我的名字。因為我不想讓人知道。
不要寫出我的名字。因為我不想讓誰因此傷心。
不要寫出我的名字。因為我與大家同名。我們叫做「我們」。
**我們——有著相同人生的人。**
**我們——懷著相同思想的人。**
最後,在我要離開前我說:「你們最大的慰藉之一,就是太太還這麼愛你們。」
那些阿姨們都熱情地接待我。
有位阿姨找出結婚照給我看,那是在1973年於河內拍攝的。
另一位說:「想知道打仗的事就問我吧,他早就舌頭退化了,你聽他說會聽不懂。」
自從我來訪後,那位阿姨每天都多煮一壺青茶。
因為每當我們聊著,總會有幾位鄰居路過、加入我們的話題。
一位叔叔牽著自行車走進小巷,手裡拿著牧牛用的鞭子。他剛從草地放牛回來。
我問他:「您也參過軍嗎?」
我之所以這樣問,是因為一路走來,每戶人家都說「我們家也有人當過兵」。
他用奇怪的眼神看著我,然後脫下帽子說:
「我沒參軍,但我也參加戰爭了,和打前線的士兵沒什麼兩樣。我是鄉裡的通信員。你知道嗎?我們那個鄉,是全縣、全省最常被轟炸的地方。飛機經過,只要癢手,就會丟炸彈;剩餘炸彈不想帶回基地,也一併丟下去。炸彈把我女朋友炸死了,她那時正在茅廁上,還來不及提褲子就死了。」
「我每次空襲後的任務,就是去數:多少人死,多少人傷,還有多少人被活埋,再把數字上報。有戶姓池的,一顆炸彈就炸死他六個孩子和一個孫子,七條命。」
叔叔戴上帽子,走出巷口。我跟著他。
「叔叔您繼續講,我很想聽。」
「夠了,那邊還有人講更多,我的故事就這樣。」
「那……那六個孩子的父母,後來呢?他們現在還活著嗎?」
「活著啊。不然怎麼辦?總得活下去。」
主人家那位伯伯走到河邊解開繩子,把牛牽回圈裡。他剛添購了一頭新牛。兩位老人一邊走,一邊聊著這頭新來的牛。
他停下腳步,說:「孩子,這裡是十五號公路,是從和平省通往廣治的路。十五號公路幾乎與一號國道平行。香溪縣的各個鄉是補給品集散地、軍火倉庫,也是部隊南下時的歇腳點。」
「十五號公路經過嘉浦鄉,沿著蘭淵河走。多少屍體,多少炸彈,要怎麼數得完?寫多少紙才能記得住?那些體內還留著子母彈的人排著長隊。蘭淵河是女孩們清洗染血軍衣與屍衣的地方,河水稀釋了血的顏色,把血沖走。衣服乾了,才能披在還躺著等死的人身上。」
**十五號公路,是通往戰場之路,是穿越香溪縣之路。**
——潘翠河(Phan Thúy Hà)
Bạn tôi có bác là liệt sĩ. Bác đi vào chiến trường miền Nam năm 1966. Năm 1976 gia đình nhận được giấy báo tử.
Chuyện gì đã xảy ra trong suốt mười năm đó? Bác đã chết như thế nào?
Chuyện xưa bà ngoại nhớ rất nhiều, nhưng hễ đến đoạn ký ức có hình ảnh của bác là bà ngưng lại hoặc kể sang một chuyện khác. Tên bác là tên kiêng không được gọi nhắc.
Trong chiếc rương của bà ngoại có một lá thư của bác gửi về nhà khi vừa hoàn thành xong khóa huấn luyện, chuẩn bị vào chiến trường. Những dòng chữ với thông tin tình hình sức khỏe của mình, dặn người ở nhà yên tâm. Nội dung thư như nhiều lá thư thời ấy.
Tại sao họ lại có thể giữ cho riêng mình câu chuyện dữ dội như vậy?
Vì họ là đàn ông. Vì họ là người lính. Hay, vì họ là người Việt Nam?
Vì không ai hỏi. Vì chúng ta đã tỏ ra không xứng đáng để được nghe?
Ước mơ của bác khi đó là gì?
Ước mơ của bác khi đó là được về nhà ăn với mẹ và em gái một bữa cơm rồi quay vào chiến trường chết cũng được.
Tôi chép những câu đó lên trạng thái facebook kèm theo bức ảnh một người lính già đang châm thuốc ngồi suy tư dưới hàng cây ven đường.
Ôi bác của tôi. Ước mơ không bao giờ thực hiện được. Bạn tôi đã thốt lên.
Bạn hối thúc tôi viết. Bạn muốn đọc. Bạn muốn biết. Những chuyện gì đã xảy ra.
Trên người chú còn bốn mảnh bom.
Chú kéo áo lên cho tôi xem từng mảnh bom tay chạm vào cảm thấy được. Hai thằng con trai tôi nghe chuyện đó thấy kinh hoàng. Người ta có thể sống với rất nhiều mảnh bom dính trong cơ thể.
Gia đình chú có tám người tham gia chiến tranh. Hai anh trai bị nhiễm độc nặng. Một anh nằm một chỗ mười hai năm đã mất. Một anh người như xác khô trên giường đã mười lăm năm.
Ông ơi, sao cả gia đình ông chọn nghề nguy hiểm như vậy ạ? – Con trai tôi hỏi.
- Không phải nghề cháu ạ. Không có nghề đánh giặc. Thanh niên lớn lên trong thời đại đó hầu hết ai cũng như các ông. Nếu cháu sinh ra ở thời của ông, sống ở làng quê ông thì cháu cũng vậy thôi.
Một đứa bé học vừa xong lớp năm. Nó có cần thiết phải biết một cách cụ thể chuyện chiến tranh đã xảy ra không? Và tôi, người mẹ, người con sinh ra khi đất nước đã im tiếng súng tiếng bom, hiểu biết được tới mức độ nào để nói cho con?
Tôi gần như không biết gì.
Ông đã kể và nước mắt nhạt nhòa. Những giọt nước mắt tuổi già trước mặt đứa trẻ lớp hai và lớp năm.
Cháu sẽ viết những câu chuyện như thế này. Tôi nói.
“Đừng kể tên tôi” là câu tôi được nghe nhiều nhất trong những cuộc gặp gỡ.
“Đừng kể tên tôi”, nhưng sau đó: khi nào viết xong nhớ báo cho tôi biết.
Cuối cùng mỗi người đều đồng ý cho tôi được viết lên dòng tên và địa chỉ rõ ràng.
Đừng kể tên tôi. Tôi không cần ai biết.
Đừng kể tên tôi. Tôi không muốn ai đó phiền lòng.
Đừng kể tên tôi. Tôi có chung tên với mọi người. Tên là chúng tôi.
Chúng tôi những người có cùng một cuộc sống.
Chúng tôi – những người có cùng một ý nghĩ.
Sau cùng, trước khi ra về, tôi nói, các bác có niềm an ủi lớn đó là vợ thương mình.
Các bác gái đã đón tiếp tôi niềm nở. Một bác tìm ảnh cưới cho tôi xem. Bức ảnh chụp ở Hà Nội, năm 1973. Một bác nói, muốn hỏi chuyện đánh nhau thì hỏi tôi chứ ông ấy bị tụt lưỡi rồi, cô nghe không quen không hiểu đâu.
Từ hôm tôi tới nhà mỗi ngày bác gái om thêm một ấm chè xanh. Bởi đang giữa cuộc trò chuyện sẽ xuất hiện vài người hàng xóm ghé qua và góp vào câu chuyện của hai bác cháu.
Một người bác dựng xe đạp ngoài ngõ, tay cầm cây roi. Bác vừa đi thả bò ngoài bãi về. Tôi hỏi, bác cũng từng đi lính?
Tôi hỏi câu đó vì từ sáng tới giờ đi qua ngõ nhà nào cũng được giới thiệu nhà này có người đi bộ đội. Bác nhìn tôi với vẻ khó hiểu, rồi cởi mũ: Nói cho cô biết, tôi không đi lính nhưng tôi tham gia vào chiến tranh chẳng khác gì lính ở mặt trận. Tôi làm liên lạc cho các ông ở trên xã. Mà xã tôi, cô đã biết chưa đấy, là xã bị đánh bom nhiều nhất huyện nhất tỉnh này. Máy bay đi ngang qua ngứa tay là nó ném. Máy bay đi đâu về thừa quả nào là nó thả nốt. Bom giết chết cô người yêu của tôi. Cô đang ngồi ở cầu tiêu. Chết luôn ở cầu tiêu, chưa kịp kéo quần lên.
Việc của tôi là sau mỗi trận bom đi đếm xem có bao nhiêu người chết bao nhiêu người bị thương bao nhiêu người kẹt lại trong đất rồi báo con số lên cho các ông. Có nhà ông Trí bom rơi chết luôn sáu đứa con và một đứa cháu nữa là bảy.
Bác đội lại mũ, đi ra ngõ. Tôi đi theo. Bác kể tiếp đi, cháu đang muốn nghe. Thôi, vào trong kia ông ấy kể nhiều chuyện còn hay hơn, chuyện tôi chỉ vậy thôi.
Thế cha mẹ của sáu đứa con sau đó...? Giờ họ còn sống không?
Thì cũng phải sống tiếp sau đó chứ như thế nào nữa.
Bác trai chủ nhà ra bờ sông tháo dây dàng dắt bỏ về chuồng. Bác vừa mua thêm được một con bò. Hai ông già đi bên nhau kể về con bò vừa mới đến.
Bác trai dừng lại. Đây cháu, đây là đường 15 đường từ Hòa Bình đi vào Quảng Trị. Đường 15 chạy gần song song quốc lộ 1A. Các xã ở huyện Hương Khê là điểm tập kết hàng hóa, là kho vũ khíquân sự, là điểm bộ đội dừng chân trên đường vào Nam.
Đường 15 chạy qua xã Gia Phố men theo sông Ngàn Sâu. Bao nhiêu xác người. Bao nhiêu bom đạn. Đếm làm sao hết. Viết bao nhiêu giấy cho đủ. Những người có bom bi lặn trong da thịt xếp hàng dài. Sông Ngàn Sâu nơi các chị giữ máu áo thương binh áo người đã chết. Nước sông loãng bớt màu nước sông trôi hết máu. Áo khô nhanh để bao bọc thân thể khác đang nằm chờ.
Đường 15 đường đi vào chiến trường đường qua huyện Hương Khê.
Phan Thúy Hà
沒有留言:
張貼留言
注意:只有此網誌的成員可以留言。