顯示具有 家庭 標籤的文章。 顯示所有文章
顯示具有 家庭 標籤的文章。 顯示所有文章

父親與三聲九響的沉默


土地改革Cải cách ruộng đất

父親與三聲九響的沉默
作者:Trần Lệ

傍晚一場暴雨傾盆而下,父親cha)正在田裡推水車。雨停了,父親準備回村,快到家時被一群人包圍。
全身濕透的他請求回家換件衣服,但不被允許。他被押走了。從那一刻起,他就再也沒回來。
母親與我們孩子只能在「鬥爭大會」(đấu tố)的黑夜裡見到他。

每當聽見三響鼓、九聲擂的節奏,我的心就劇烈跳動。
黃昏時分,三響九聲的鼓聲響起,那是地主被帶去村公所受審的信號。

父親從家門前經過,雙手緊緊綁在身側。我們站在前院,父親知道孩子們在看他,他低著頭走過。

第二天黃昏,又響起那三響九聲的戰鼓。我們兄弟姊妹站在前院,等待父親再次經過,依然是雙手綁緊,沉默無言。

父親捎口信回家:「讓他們拿吧,一根鍋蓋也別藏。你們若藏了一樣東西,我的罪就多一樣;你們守著一件物品,我就多坐一年牢。」

他們搜我們的家。說地主家不可能什麼都沒有。他們掘地,挖得我都快跟不上。他們在祖先的神桌底下挖出深坑,認定地主家總有黃金埋藏。他們翻開狗窩、掘開狗睡過的泥地,在牛棚柱腳下也一通亂挖。
終於,有人大叫:「黃金來了!」他們丟下鋤頭,蜂擁而上,從坑裡翻出一個罐子。打開,是一罐早年的銅幣。
他們氣急敗壞,大聲咒罵。

後來一戶新家庭搬入我們的老房。他們父子一起掘地,兒子比父親掘得更深,整整一個月不放過任何角落。花園滿是鋤頭留下的瘡疤。

三響九聲的鼓聲再次響起——

「拉出地主陳堅Trẳn Khiên)!」

「抬頭看天!」

鬥爭之夜開始了。

天快亮了。人們已不再高喊口號,沒有人再願意上台控訴。

「那現在該怎麼辦?」隊長問。

「一發子彈解決他吧。」有人冷冷說。

我猛然一震,回頭望著那說話的人——是同村的人。他與我們家無冤無仇。
「一發子彈」的意思是要處決父親。

隔天,父親被送往香春監獄trại giam Hương Xuần)。
當晚,他獲准短暫返家。

父親喜歡吃三葉米gạo ba lá)混上御用糯米cốm nếp ngự)做的飯。
母親帶著我們幾天內在稻田裡拾穗。白天撿稻被驅趕,我們只得在黃昏後偷偷下田。
終於煮出一碗飯給父親。

兩名民兵押著父親回家。但他不能進屋,只能站在豬舍下。

他站在豬圈屋簷下,繩子從綁手處延伸,繫在木柱上。
雙臂綁緊貼身,雙手尚可活動。

我端著飯碗遞給父親,他伸手來接。
那條繩子猛然被一旁藏在草叢的民兵一扯,飯碗掉落。那民兵露出得意的笑容看著。

碗沒破,飯撒了一地。
父親蹲下,一粒粒拾起放入口中。

隔天,三響九聲的鼓聲再度響起。母親帶著我們七個孩子站在路邊,看著父親走過。
他轉頭望著孩子們,彷彿想說什麼。

多年後,我與母親前往香春監獄的墓地,把父親的遺骨接回家。
我摸到那顆頭骨,輕輕捧起,輕聲呼喚。

我從潘廷逢高中Phan Đình Phùng)畢業後,選擇考進水利大學trường Thủy lợi)。我想:學這個,將來可以在田野與渠道間工作,少與人打交道。

入學通知寄到鄉裡。
鄉政府機密回信給學校:「其父任鄉長,其祖任總長,三代效忠帝國主義,建議拒絕錄取。」

我被取消學籍,只能回鄉當合作社農民。

青年夜間活動中,有人站起來指著我和堂弟說:
「你們兩個不如一堆糞。糞還能施肥,讓稻子長得好,養軍隊打仗。」

我們是地主的孩子。即使被羞辱,也只能沉默。

兩年後,我弟到了當兵的年紀。他被送往南方戰場,戰死異鄉。

地主的孩子,人人避之唯恐不及。
姊姊孤獨終老。我相貌平平、家境貧寒,卻娶得美嬌娘——因為她也是地主之女。

父親曾施米施穀予貧民;如今無米可施,我則施教於人。
人生在世,應當誠實善良,不該活在仇恨中。
我免費教村裡的孩子讀書寫字。

黃昏時,我坐在屋前,看著那條老路,仿佛又見父親走過,邊走邊回頭。
三響九聲的鼓聲仿佛再次響起,直震胸口。即使盛夏,我仍得加穿毛衣。

十五歲時,我是個膽怯的少年。那晚,我被關在檳榔籠裡,腳下踩著糞。
籠子稀疏,能爬出去,但我不敢。半夜,民兵已不看守,我還是不敢逃。我尿濕了褲子。

那份十五歲的恐懼,至今八十二歲仍未散去。我是個老邁又懼怕的男人。
我連發問都不敢。
我只想為後代寫下關於祖先的幾句話。
但每當提筆,我就發抖。


專有名詞註解

  • 父親(cha):主角之父,於土地改革期間被當作「地主」遭受批鬥與折磨,象徵一整代受難者。

  • 鬥爭大會(đấu tố):越南土地改革時期的群眾批鬥會,模仿中國式「群眾運動」,用以清算地主與所謂反革命。

  • 陳堅(Trẳn Khiên):父親的名字,在村民面前被公審與羞辱。

  • 香春監獄(trại giam Hương Xuần):關押被捕地主與異見人士的地點,象徵極權的幽影。

  • 潘廷逢高中(Phan Đình Phùng):越南著名中學,以民族英雄命名,學生代表未來希望。

  • 水利大學(trường Thủy lợi):工科大學,主角選擇它為了避免與人接觸,突顯他的創傷與逃避。


簡評
這篇回憶錄式的小說,以極其冷靜的筆法,記錄越南土地改革期間一個家庭的苦難與主角一生的陰影。全篇未有怒吼,卻字字如鉛;無聲勝有聲。從「三響九聲」的鬥爭鼓,到一碗打翻的飯、一句「不如一堆糞」,每個細節都深刻烙印著制度性羞辱與世代創傷。這不僅是對過去的控訴,更是一場記憶的捍衛。作者最後那一句:「我連提筆都會發抖」,將歷史的沉重無聲地傳遞至今。


Trần Lệ


Cơn mưa chiểu trút xuống, cha đang làm xe đẩy nước ngoài đồng. Mưa tạnh, cha về làng, gần tới nhà bị dần quần vây lại. Qụần áo ướt sũng, cha xin được vể thay quần áo nhưng không được. Cha bị giải đi. Cha đi luôn từ lúc đó. Mẹ và các con chỉ được nhìn thấy cha trong những đêm đấu tố.


Mỗi lần nghe trống ba hổi chín tiếng là trống ngực tôi đập thình thịch. Chập choạng. Trống ba hổi chín tiếng. Trống báo giờ địa chủ bị giải ra đình đấu tố.


Cha đi qua trước nhà. Hai tay bó chặt xuôi theo cơ thể. Chúng tôi đứng trước sân. Cha biết các con đang nhìn. Cha cúi đầu đi.


Chiều hôm sau, chập choạng, trống ba hồi chín tiếng nổi lên. Đàn con ra đứng trước sân, chờ cha đi qua, hai tay bó chặt xuôi theo cơ thể.


Cha chuyển lời về nhà, các con cứ để cho họ lấy hết. Một cái vung cũng không được giấu. Các con cố giữ lại một thứ gì tội cha to thêm một thứ đó. Các con giữ thêm một đồ vật cha bị kết tù thêm một năm.


Sao nhà địa chủ không có gì. Họ đào bới nền nhà. Họ đào tới đầu tôi đi theo tới đó. Họ đào dưới bàn thờ thành một hố sâu. Nhà địa chủ phải có có vàng chôn dưới đất. Họ ra ngoài thềm nhà ngang, lật cái ổ chó nằm, đào dưới ổ chó nằm. Họ tức điên lên. Họ đào dưới chân cột chuổng bò. Vàng đây rổi, một tiếng rú lên, họ vứt cuốc túa lại bên cái hũ vừa được đào lên. Một hũ tiền đổng ngày xưa. Họ chửi bới.


Một gia đình mới được dọn đến ở trong trại nhà tôi. Cha đào trước, con đào sau. Người sau đào sầu hơn người trước. Kiếm tìm suốt cả tháng. Vườn nham nhở dấu cuốc xẻng.


Trống ba hồi chín tiếng.


“Lôi cổ tền địa chủ Trẳn Khiên ra đầy”.


“Ngẩng mặt lên trời”.


Đêm đấu tố bắt đầu.


Trời đã gần về sáng. Không còn ai hăng hái. Không ai lên đấu nữa.


Đội hỏi: Giờ theo bà con nên xử thế nào?


“Một cái mọ tro cho xong”.


Tôi giật thót, quay xuống nhìn người vừa nói cầu đó. Một người ở cùng làng. Anh ta có hận thù gì nhà tôi đầu. “Một cái mọ tro” có nghĩa là “một viên đạn”. Anh muốn cha tôi bị xử bắn.


Ngày mai cha bị đưa lên trại giam Hương Xuần. Tối nay cha được cho vể nhà một lúc.


Cha thích ăn cơm gạo ba lá trộn cốm nếp ngự. Mẹ con đi mót lúa trong mấy ngày. Mót lúa ban ngày bị đuổi, chị em tôi đi mót cả vào chiểu tối, khi ngoài đổng không còn ai. Nấu được cho cha một bát cơm ngon.


Hai dân quân giải cha vể. Cha không được vào nhà. Phải đứng ngoài chuông lợn.


Cha đứng dưới mái chuồng lợn. Một sợi dây thừng nối từ chỗ trói tay buộc vào gốc cầy.


Hai cánh tay trói sát sườn. Bàn tay vẫn cử động được.


Chị em tôi ra với cha. Tôi bưng bát cơm mời cha. Bàn tay cha giơ ra đón. Sợi dầy trói giật mạnh. Bát cơm rơi xuống. Người dân quân đứng trong bụi cây cẳm sợi dây hả hê đứng nhìn.


Bát không vỡ. Cơm đổ ra.


Cha ngổi xuống, nhặt từng hạt cơm vào miệng.


Hôm sau. Trống ba hồi chín tiếng. Mẹ và bảy đứa con ra đứng bên đường. Đợi cha đi qua. Nhìn theo. Cha quay lại nhìn các con. Cha muốn nói điểu gì.


Trống ba hổi chín tiếng.


Đa năm sau tôi cùng mẹ lên nghĩa địa trại giam đưa cha vể. Tôi chạm tay vào hộp sọ. Tôi bê lên. Tôi gọi thầm.


Học xong cấp ba Phan Đình Phùng, tôi chọn vào trường Thủy lợi. Tôi nghĩ, học trường thủy lợi sau này ra trường sẽ đi làm ở ngoài đổng, ngoài mương, ít phải tiếp xúc với con người.


Giấy gọi đi học gửi về xã. Xã ghi lý lịch mật gửi ra trường Thủy lợi. “Cha làm lý trưởng. Ông làm chánh tổng. Ba đời ôm chần đế quốc. Để nghị không xét tuyển”.


Không cho tồi đi học. Tôi ở nhà làm nông dân hợp tác xã.


Những buổi tối sinh hoạt thanh niên.


Một người đứng lên chi vào mặt tôi và người em họ. “Hai đổng chí không được như đống phân. Đống phần còn có giá trị bón ruộng cho lúa tăng năng suất nuôi bộ đội ăn đánh giặc”.


Chúng tôi là con địa chủ. Bị nhục mạ phải im lặng.


Hai năm sau em tôi đến tuổi đi bộ đội. Em đi vào chiến trường miền Nam. Em hy sinh.


Con địa chủ bị xa lánh. Chị tôi ở một mình. Tôi xấu trai hèn kém nhưng lấy được vợ đẹp. Vì cô ấy là con địa chủ.


Cha cho người nghèo thóc gạo. Không có thóc gạo tôi cho người chữ. Con người sinh ra để sống lương thiện, không phải để hận thù. Tôi dạy học miễn phí cho các em nhỏ trong làng.


Những buổi chiểu ngồi nhìn ra con đường trước nhà tôi thấy dáng hình cha tôi. Cha vừa đi vừa ngoái lại. Ba hổi chín tiếng. Tiếng trống dội lên trong ngực. Người tôi ớn lạnh. Giữa mùa hè mà tôi phải mặc thêm chiếc áo len.


Mười lăm tuổi, tôi là đứa trẻ sợ hãi. Đêm, bị nhốt trong chuổng trầu. Chân giẫm lên phần. Các thanh chắn chuồng trầu thưa, có thể chui ra ngoài nhưng tôi không dám. Quá nửa đêm, dần quân không canh nữa, tôi vẫn sợ. Tôi đã tiểu ra quần.


Nỗi khiếp sỢ năm mười lăm tuổi. Nay tám mươi hai tuổi tôi vẫn là ông già sợ hãi. Tôi không dám thắc mắc một điều gì. Muốn viết đôi điểu cho con cháu biết vể cha ông mình. Cầm bút lên tôi lại run.

父親的淚雨


共產黨領導人格奧爾基·馬林科夫、胡志明和毛澤東在土地改革期間的一次批鬥會上的照片(左)。右邊是土改Cải cách ruộng đất時期常見的圖像。

父親的淚雨
Võ Thị Thấy

那天下午,公公坐在門檻邊劈竹,慢悠悠地說:「這一回隊伍回來,我們這村應該不會有人被鬥吧?我們村有田地的家,也就那幾分而已。」

公公瘦骨嶙峋,皮膚蠟黃,一遇變天鼻水就直流。他外衣口袋裡總塞著一條擦鼻水的手帕。說這話時,他伸手入袋,掏出手帕擦鼻子。

話音未落,村尾一個人從巷子外跑進來:「快點,快點,有什麼值錢的快藏起來,隊伍要上來了!」

公公立刻放下手中刀與竹片。我望向他,又望進屋裡、望進廚房、望向巷子口。

現在要藏什麼?什麼算是值錢?我才嫁來這家一個月,根本不知道家裡有什麼財物。

「快點啊,快點!」

公公跑到草堆邊搬來梯子,爬上架子,取下一疊瓷碗,大約十個。我是第一次見到那些碗。

他緊緊摟著碗堆跑到一棵波羅蜜樹下,我去找鋤頭,一起挖坑埋碗。

可他們已經來了。

來不及了。

公公被帶走。

丈夫從田裡奔回。他們正在燒他的課本、筆記,連祭文、手札也一起燒。反動資料要全部銷毀。他哀求留下一本八年級的學籍簿。

「反動分子板!(Bản)」「他砍斷樹枝,破壞偽裝,替敵人帶路。」

只因為有天,一位婦女經過巷口,看見公公架梯修剪樹枝。那是公公每年雨季前都會做的事。

那晚,他被迫跪在一塊鋪著尖石的石板上。雙膝壓在石尖,整夜低頭跪著,讓鄉親們輪番上前「指罪」。

拂曉,他才得以回家。雙膝腫得發亮,滲著血。我搗了薑,包入布中,用火烘熱為他熱敷。

隔天深夜他又被帶走。傍晚時,我縫了一塊布補在他褲頭膝蓋處,希望他跪時能少些疼痛。

「誰幫你縫的?」

「報告,是我自己縫的。」

那層襯布被撕了下來。

那晚,他跪得更久。石頭更尖,壓在膝蓋上更刺人。

———

【專有名詞註解】

  • 隊伍(đội):指階級鬥爭時期的工作隊,執行清查、鬥爭與群眾動員任務。

  • 波羅蜜樹(mít):熱帶果樹,常見於越南鄉村。

  • 板(Bản):丈夫名字的音譯,被當作「反動分子」批鬥。

(後續段落翻譯請求可繼續)
———

簡評
這篇短篇小說透過兒媳視角,細膩描繪越南土地改革運動中,家庭如何在政治壓力下支離破碎,父子如何在沉默與屈辱中支撐彼此。語言冷靜克制,情感卻如暗流洶湧,尤其描寫父親悲劇與丈夫崩潰的轉折處,痛徹人心。作品不僅是對一段歷史的追憶,更是對記憶、尊嚴與愛的默默守護。

😀😀😀


父親的淚雨(二)
Võ Thị Thấy

工作隊下令我必須離開夫家,切斷與「反動地主家庭」的一切關係。若不立即離開,就會被帶上台「鬥爭」。

父母因我受到牽連。他們跪在隊員腳下,哀求說:「我們不知道這家是地主,才把女兒嫁過來的。現在知道了,求求你們,讓我們立刻把女兒接回。」

我跟著父母回家。夫家的房子被分給兩戶人住。丈夫、弟弟與公公被趕到廚房後方暫住。新來的住戶則被指派監視這「地主家」三人的一舉一動。

若丈夫想來見我,只能趁夜。夜裡,他悄悄繞路來,我在房門口迎接,拉他進房,關燈,遞給他一碗飯。他在黑暗中匆匆吃著,母親則在門外放哨。

我有一個做「民兵(dân quân)」的閨蜜,但根本無法求助。她藉著朋友之名來我家,反而監控得更緊。我想送些食物回夫家也做不到。甚至丈夫的姊姊也被攔下,不准她探望父親與弟弟們。

那些日子,大家怎麼活過來的,我根本不知道。

冬天來了。又冷又濕。公公鼻涕長流,卻只穿著單薄衣衫,在寒風中搖搖晃晃。他進山砍竹,從早砍到晚才扛著竹子走出林口。那些長長的竹子極難搬運。公公一路挑著竹子走到「和海村(Hòa Hải)」。從那裡到家還有好幾公里。他腳步虛軟,被飢餓與寒冷壓垮,實在走不動了。他放下竹擔,走進路邊一戶人家,想靠近火堆取暖。主人讓他坐在灶邊。公公顫聲說:「給我一碗飯吧……」

那家人已吃完飯,卻仍為他煮了一鍋飯。可惜,這正是「民兵」正在開會的人家。一名民兵進廚房時撞見了他。

「怎麼讓地主進來!」

主人雖善良,卻更怕被牽連。灶上的飯鍋才剛煮沸,他們只好遞給公公一把火炬,趕他離開。

———

【專有名詞註解】

  • 民兵(dân quân):越南鄉村基層的武裝群眾組織,擔任糾察、監控與鬥爭任務。

  • 和海村(Hòa Hải):越南中部實際存在的村落名,小說中用以代表一處鄉村距離與行走困難。

(請告知是否繼續下一段翻譯)
———

簡評(二)
本段進一步揭示群體恐懼如何吞噬基本人倫,即便是親人、朋友、陌生人,也無法超越「階級敵人」的身份枷鎖。對「父親」的描寫轉為近乎宗教式的受難象徵,顯現出小說深沉的倫理批判。字裡行間,讀者能感受到一個封閉社會如何在政治高壓下分崩離析。


😀😀😀

父親的淚雨(三)
Võ Thị Thấy

隔天清晨,人們在「二岔橋(Ngả Hai)」邊的田埂上發現一具屍體。
覆在屍身上的,是一條短褲與單薄上衣。手邊落著一根尚未燒盡的火炬。

那是我公公的身體,被包裹在焦灰與枯葉中。丈夫與小叔扛著父親,將他埋在他倒下的田野旁。

「阿爸!阿爸啊……」
丈夫在夜裡放聲痛哭,淒厲得讓整個小村的心都破了。
我知道父親死得多麼悲慘,卻連見他最後一面都無法。

在夫家屋裡,丈夫的姐姐也在哭。她用右手遮住臉,不讓人看見她哭泣的模樣。因為,哭一個「地主」就是哭「敵人」。
她的丈夫是老師,若被發現他老婆為「敵人」落淚,他可能會被革職。

「阿爸啊……阿爸……」
丈夫夜夜哭著呼喚父親。

半年後,地主之女獲准自由來去。
我回到丈夫身邊。他整個人像被掏空了一樣。我們努力重拾生活。

靠著那本好不容易保下的學籍證明,丈夫去讀了師範學校。
後來,他成了一名好老師,對學生用心,深受家長敬重。他甚至當上了校長,直到退休。

———

【專有名詞註解】

  • 二岔橋(Ngả Hai):象徵鄉村道路與人生命運分歧處,小說中此地成為公公悲劇命運的終點。

  • 地主(địa chủ):越南土地改革期間被標籤為「階級敵人」的富農或地產擁有者,常遭鬥爭與迫害。

———

簡評(三)
這一段的情感張力達到高潮,死亡與哭泣鋪陳出一場階級政治下的人倫毀滅。丈夫的崩潰與姐姐的壓抑,共同描畫了越南土改下整個社會的情感扭曲。小說以極其克制卻深刻的筆調,呈現出歷史暴力如何滲入每一個家庭與靈魂深處。


😀😀😀


父親的淚雨(四)
Võ Thị Thấy

丈夫突然病倒。人們說他得了「胡言亂語症」。
半夜他會坐起來自言自語。孩子們聽不懂他在說什麼,只有我明白。
只有我知道,那些話不是胡說。他不是在說夢話。

他喝酒。喝醉了就哭。
他坐在門檻邊,身邊放著一瓶白酒,淚流滿面。
「阿爸啊……阿爸啊……」
那哭聲在深夜裡撕裂我的心,我彷彿又看見那年我們的父親回來了。

他把孩子們叫到身邊,告訴他們我們村裡誰惡誰善。
那些故事斷斷續續,孩子們聽不懂。

我們從沒談起那段往事。孩子們怎麼會明白?

他拿米去送給村裡一位貧苦的老太太。他告訴孩子們:「她人很好,過去很照顧我們一家。」

父親病得越來越重,孩子們都很擔心。

人們私下議論:「老阮(Ông Duyên)瘋了。」

但我知道,那不是瘋。他只是壓抑了太久太久,把那些話、那些痛苦,藏進了歲月深處,如今全湧了出來。

他經常獨自流浪,走進田野,走進風雨中,像是在尋找他的父親。
「阿爸啊……阿爸啊……」
在無邊的荒野裡,他一遍遍呼喚。

某天清晨,就像那年父親過世的早晨一樣,人們在一棵番石榴樹下發現他。
那一夜風大雨大。他穿著短褲和薄衣,就這樣死了。死在這人世間的大雨中。

———

【專有名詞註解】

  • 老阮(Ông Duyên):故事中的丈夫,從父親的被迫害到自身的精神崩潰,象徵一代越南人在階級鬥爭下的心靈創傷與沉默復仇。

  • 番石榴樹(cây khế):在越南文學與傳說中象徵鄉愁與童年記憶,成為這段生命終結的見證者。

———

簡評(四)
小說最後一段收於靜謐卻震撼的死亡畫面:丈夫穿著單薄衣物死於風雨中,如同當年他的父親。那是一種輪迴,更是一場從未癒合的歷史創傷的再現。作者沒有控訴,沒有喊口號,只以極度克制的筆觸、撕裂人心的細節,訴說了政治鬥爭如何一點一滴,奪走了一個家庭的正常生命流轉。整篇小說如淚如雨,沉靜而悲涼,讀來令人不忍釋卷。


😀😀😀😀


      Võ Thị Thấy

Buổi chiều, cha chổng tôi ngôi chẻ tre bên thềm nhà, thong thả nói, đợt này đội về xóm ta chắc không ai bị. Xóm ta nhà có ruộng cũng chỉ mấy sào.

Cha chổng tôi gầy gò, nước da mai mái, trở trời là mũi chảy ròng ròng. Trong túi áo cha có chiếc khăn lau nước mũi. Lúc này tôi thấy cha thò tay vào túi lấy khăn ra lau.

Cha vừa nói dứt câu, một người ở xóm dưới chạy ngoài ngõ vào. Nhanh lên, nhanh lên, có được gì cất nhanh, đội sắp lên.

Cha buông con dao, buông đoạn tre đang vót. Tôi nhìn cha, nhìn vào trong nhà, trong bếp, nhìn ra ngõ.

Cất gì bầy giờ? Thứ gì là quý giá? Tôi mới về nhà chồng được một tháng, chưa biết trong nhà mình có của nả gì.

Nhanh lên. Nhanh lên kia.

Cha chạy ra chuồng rơm lấy thang vào nhà leo lên chạn. Cha lấy xuống một chồng bát, có chừng mười cái. Lần đầu tiền tôi thấy những chiếc bát này.

Cha áp chồng bát vào ngực chạy ra gốc mít. Tôi đi tìm cuốc. Đào hố chôn bát.

Họ đã đến.

Không kịp nữa rổi.

Cha bị đưa đi.

Chồng tôi làm ngoài đồng chạy về. Người ta đang đốt những cuốn sách cuốn vở của anh. Có cả những tờ sớ, sổ tay. Tài liệu phản động phải đốt hết. Chổng tôi van xin cho giữ lại cuốn học bạ lớp tám.

Thẳng Bản phản động. Thằng Bản chặt cây phá vòng ngụy trang chỉ điểm cho giặc.

Bởi vì, có một lần bà ta đi ngang qua ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cầy tỉa bớt cành lá. Việc cha vẫn làm trước mùa mưa tới.

Một khối đá với mặt trên là những cục đá sắc nhọn. Cha phải ép đầu gối lên đá. Qụỳ suốt đêm, đầu cúi xuống, cho bà con lên chỉ tội.

Gẳn sáng cha được về nhà. Hai đầu gối sưng phù, rỉ máu. Tôi giã gừng, bọc vào vải, hơ nóng lền chườm cho cha.

Đêm hôm sau cha lại bị bắt đi. Buổi chiều tôi gấp một miếng giẻ may vào phần đẩu gối chiếc quẩn cho cha quỳ đỡ đau buốt.

Đứa nào may thêm vải này cho mày?

Dạ thưa, con tự may.

Lớp giẻ độn mặt sau chiếc quần bị tháo ra.

Đêm đó cha bị quỳ lâu hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc hơn đêm qua.

Đội ra lệnh tôi phải rời khỏi nhà chồng, cắt đứt mối quan hệ với gia đình địa chủ phản động. Không đi ngay hôm nay tôi sẽ bị đem ra đấu tố.

Thầy mẹ vì tôi cũng bị liên lụy. Thầy mẹ tôi quỳ xuống chân đội dạ thưa. Dạ thưa chúng con không biết nhà này là địa chủ nên mới gả con gái. Dạ thưa nay biết là địa chủ rồi xin đưa con gái vể nhà ngay.

Tôi về nhà với thầy mẹ. Ngôi nhà chồng tôi có hai gia đình đến ở. Chổng tôi, em trai và cha ở sau bếp. Những người mới đến ở có nhiệm vụ theo dõi sinh hoạt đi lại của ba cha con tên địa chủ.

Chồng muốn sang nhà gặp tôi phải đi vào ban đêm. Tôi đón anh ở cửa buồng, kéo anh vào buồng, tắt đèn, đưa cho anh bát cơm. Anh ăn vội bát cơm trong bóng tối. Mẹ tôi đứng ngoài canh.

Tôi có một cô bạn thân làm dân quần nhưng không nhờ cậy được. Lấy cớ là bạn, cô đến nhà tôi giám sát chặt hơn. Tôi muốn mang đồ ăn lên nhà mà không được. Chị gái chổng tôi cũng bị chặn đường lên với cha và các em.

Những ngày đó mọi người sống như thê' nào. Tôi không biết.

Mùa đông. Rét và mưa. Cha tôi mũi chảy ròng ròng, một manh áo mỏng đi giữa gió đổng phần phật. Cha đi vào rừng chặt nứa. Từ sáng đến chiều mới vác được nứa ra tới cửa rừng. Những cây nứa dài thượt mang ra được khỏi rừng vô cùng khó khăn. Cha gánh nứa ra tới làng Hòa Hải. Từ làng Hòa Hải về nhà còn dăm cầy số. Bước chân cha bủn rủn. Cơn đói và cơn rét. Cha không bước nổi. Cha thả gánh nứa vào một nhà bên đường xin hơ lửa. Chủ nhà cho ngồi bếp. Giọng cha run cầm cập, cho tôi xin một bát cơm. Nhà người ta ăn cơm rồi nhưng vẫn nấu một niêu cơm cho riêng cha. Thảm thương cho cha tôi, vào đúng ngôi nhà dân quần đang họp. Một dần quân đi vào bếp phát hiện ra cha tôi.

Thằng địa chủ sao cho vào đây?

Người chủ nhà tốt bụng nhưng nỗi sự hãi lớn hơn. Niêu cơm trên bếp vừa sôi. Họ chầm cho cha một bó đuốc. Bảo cha đi ra khỏi đây ngay.

Sáng hôm sau người ra đồng thấy một xác chết bên cầu Ngả Hai. Phủ trên thần xác là quần đùi áo mỏng. Bàn tay buông ra bó đuốc cháy dở.

Thân thể cha cuộn trong lá tro. Chổng tôi và em trai khiêng cha chôn bên đường, trên cánh đổng cha ngã xuống.

Cha ơi cha ơi. Tiếng khóc của chồng tôi rống lên trong đêm buốt tim gan người xóm nhỏ. Tôi biết cha chết thảm mà không đến được.

Ở nhà bên, chị gái chồng tôi khóc cha tay phải che mặt không cho ai nhìn thấy. Khóc địa chủ là khóc địch. Chồng chị là thầy giáo, nếu biết vợ anh khóc thương địch anh có thể bị đuổi dạy.

Cha ơi cha ơi.

Cha ơi là cha ơi.

Đêm nào chổng tôi cũng khóc cha.

Nửa năm sau con địa chủ tự do đi lại.

Tôi trở vể với chổng. Chồng tôi người như không còn sức sống. Chúng tôi cùng nhau lập lại cuộc sống.

Nhờ cuốn học bạ giữ được, chồng tồi đi học trường sư phạm. Trở thành thầy giáo giỏi, tận tuy với học sinh, phụ huynh thương mến. Và làm ông hiệu trưởng cho tới ngày nghỉ hưu.

Ông đột nhiên đổ bệnh. Người ta gọi là bệnh nói nhảm. Nửa đềm ông ngồi dậy và nói một mình. Các con không hiểu ông nói gì. Chi mình tôi hiểu những điểu ông nói ra. Chỉ mình tôi hiểu là ông không nói nhảm.

Ông uống rượu. Rói ông khóc. Ông ngồi bên thềm, bên chai rượu trắng, khóc tu tu. Cha ơi cha ơi. Cha ơi là cha ơi. Tiếng khóc cứa vào tim tôi một đêm khuya. Tôi nhìn thấy cha của chúng tôi năm xưa hiện vể.

Chổng tôi kều các con lại, nói cho các con biết làng mình người nào ác người nào hiền. Những câu chuyện đứt gãy khó hiểu.

Chưa khi nào chúng tôi nhắc chuyện năm xưa. Các con tôi làm sao hiểu được.

Ông xúc gạo mang đi cho một bà nghèo khổ trong làng. Ông nói với các con, bà tốt bụng lắm, thương gia đình mình nhiều lắm.

Cha bệnh nặng quá rồi. Các con lo lắng.

Ông Duyên bị điên rồi. Người ta nói với nhau.

Chổng tồi điên hay dòng tầm sự bị nén lại qua năm tháng dằng dặc mà thành ra như thế.

Ông đi lang thang. Ông đi ra cánh đồng. Ông đi giữa cơn mưa gió. Ông đi tìm cha. Cha ơi cha ơi mênh mông giữa đồng không.

Một buổi sáng như buổi sáng năm nào. Người ta thấy ông nằm dưới gốc cây khế. Sau một đêm mưa to gió lớn. Trên mình là quần đùi áo mỏng. Ông đã chết. Giữa cơn mưa trần thế.

父親啊,父親啊——一場越南土地改革中的低語


Cải cách ruộng đất土地改革時期特別人民法院開庭審理時,出現「胡主席萬歲」的口號(左)。右邊是鬥爭的場景。

父親啊,父親啊——一場越南土地改革中的低語

作者:Võ Thị Thấy

那天下午,公公坐在家門的竹椅上,悠然地說:「這一輪,隊伍來我們村,應該沒人會被抓。我們這裡有田的也才幾分地。」

公公瘦削,皮膚暗黃,只要天氣變了,鼻水就會直流。他外衣口袋裡總放著一條手帕擦鼻水。這時,他伸手掏出手帕。

話音剛落,一個鄰村的人從巷口跑來:「快點快點,有什麼值錢的趕緊藏起來,隊要來了!」

公公放下手中的刀和竹條。我望著他,再看屋裡、廚房和巷口。

要藏什麼呢?什麼是值錢的?我剛嫁進來一個月,還不知道家中到底有什麼財產。

「快點快點啦!」

公公跑到草棚取梯子進屋,爬上廚櫃,取下一疊碗,大約十個。我是第一次看到這些碗。

他將碗抱在胸前,跑向山榴樹下。我去找鋤頭,一起挖洞埋碗。

但他們來了。

已經來不及了。

公公被抓走了。

我丈夫從田裡跑回家。人們正在焚燒他的書籍與筆記,還有一些文書和記事本。

「反動資料必須全燒掉。」

我丈夫哀求,求他們留下初中學籍簿。

「反動分子Bản,把樹砍了,破壞偽裝,替敵人指路。」

只因有次,那個女人經過,看到公公爬梯修剪樹枝——那是迎接雨季的例行工作。

地上是一塊岩石,上面布滿尖銳石頭。公公跪在上頭,整晚低著頭,讓鄉親來「指認罪行」。

快天亮才被放回家。他的雙膝腫脹滲血。我搗薑,裹布加熱,替他敷上。

隔晚,公公又被抓走。下午我趕縫了一塊布,縫進他褲子膝蓋處,想讓他跪得不那麼疼。

「誰替你縫的這塊布?」

「報告,是我自己縫的。」

褲子後面的布墊被拆掉。

那晚他跪得更久,石頭更尖。

隊命令我必須離開夫家,切斷與「反動地主」家庭的關係。若不當天離開,就會被帶去批鬥。

父母因此也被牽連。他們跪在隊前哀求:

「我們不知道這家是地主,才把女兒嫁來的。現在知道了,我們馬上帶女兒回家。」

我回娘家。婆家的房子被兩戶人住進來。丈夫、弟弟和公公被趕到廚房後方。新搬進的人任務是監視他們一舉一動。

丈夫若想來見我,只能在夜裡偷偷來。我在房門迎接他,把他拉進房裡、關燈,遞給他一碗飯。他在黑暗中匆匆吃完。母親在外頭守著。

我有個好友是民兵(dân quân),卻指望不上。她以朋友之名,加強監視我。我想送點食物上去也不行。連丈夫的姊姊也被攔住,不能去探望父親與弟弟。

那些日子裡,他們怎麼活著,我根本不知道。

寒冬。又冷又濕。公公鼻水直流,身披一件薄衣,在風中瑟縮。他進山砍竹,從早到晚才將一捆竹子扛出林子。長竹難搬,他千辛萬苦扛出來,走到Hòa Hải村(和海村)。從那裡到家還有幾公里。他腳步虛浮,飢餓與寒冷讓他寸步難行。他將竹擱在路邊一戶人家門口,求進屋取暖。

屋主讓他坐在灶旁。他顫抖著說:「請給我一碗飯。」

那家人吃過了,但還是為他煮了一鍋飯。可悲的是,那屋正是民兵會議地點。一位民兵進廚房,發現了公公。

「讓地主進來幹什麼?」

好心人終究不敵恐懼。鍋裡的飯才剛煮沸,他們塞給他一把火把,叫他趕快離開。

隔日早上,人們在**Ngả Hai橋(兩岔橋)**邊發現一具屍體。身披短褲薄衣,一手鬆開一把燒到一半的火把。

公公的遺體被灰葉包裹著。我丈夫與弟弟將他抬去埋在倒下那一刻的田埂邊。

「父親啊,父親啊……」丈夫的哭聲在夜裡響徹村莊,刺入人心。我知道他死得淒慘,卻無法去送他最後一程。

隔壁,丈夫的姊姊也在哭,手掩面,不讓人看到她的眼淚。

哭地主,就是哭敵人。她丈夫是老師,若被發現妻子哭了「敵人」,就可能被革職。

「父親啊,父親啊……」

夜裡,丈夫夜夜哭著叫父親。

半年後,地主的女兒被准許自由出入。

我回到丈夫身邊。他像失了魂的人。我們努力重建生活。

靠著那本保住的學籍簿,他考上了師範學校(trường sư phạm)。後來成為受人敬愛的老師,學生和家長都喜歡他,最終當上校長直到退休。

然後他病倒了。人們說是「胡言亂語症」。他半夜坐起,自言自語。孩子們聽不懂他說什麼,只有我明白:那不是胡言亂語。

他喝酒,醉了便哭。他坐在門前,手握白酒瓶,哭得像個孩子。

「父親啊,父親啊……」那哭聲在深夜刺穿我的心。我彷彿看見從前的父親回來。

他召集孩子們來,告訴他們村裡誰善誰惡。斷裂又難懂的敘述。

我們從未與孩子提過那些年。孩子們怎會懂?

他舀米去送給村裡一位貧婦。「她心腸很好,很關心我們家,」他對孩子們說。

父親病重了,孩子們憂心忡忡。

「Duyên先生瘋了,」人們這樣傳。

他是真的瘋了?還是那些壓抑多年的話語,終於潰堤?

他開始四處遊蕩。走進田野,走進風雨裡,去找父親。

「父親啊,父親啊……」在無邊的原野中回響。

某個早晨,如當年那個早晨般,人們發現他倒在一棵**番石榴樹(cây khế)**下。那晚大雨傾盆,大風怒號。他身上依然是那短褲薄衫。

他死了。在這人世間的風雨裡。


書評

這篇短篇小說以樸素卻切膚的語言,記錄了越南土地改革運動(Cải cách ruộng đất)中一位「地主家庭」的苦難記憶。作者Võ Thị Thấy以媳婦的視角,講述了一個沉默父親如何在政治暴力與群眾鬥爭中受辱致死,又如何在兒子的記憶中化為深夜的哭聲與流轉的精神創傷。

這不是一篇喊口號的作品,也不是歷史檄文,而是一首哀歌。它讓人理解歷史的痛,不只是統計數字或政治名詞,更是活生生的血肉與家庭的斷裂。誠摯推薦給對戰後東亞歷史與文學有興趣的讀者。

😀😀😀😀

詞語解釋如下:

dân quân(人民團體)

  • 越文原文dân quân

  • 直譯:「民兵」或「人民武裝」

  • 在本文語境下的意義
    在小說《父親的淚雨》中,dân quân 並非僅指正式軍事組織,而是一種由當地群眾組成、負責協助政府進行階級鬥爭、監視與糾察的群眾組織,類似於中國「民兵」與「紅衛兵」的結合體。其主要任務包括:

    • 監督「地主階級」或其他被標籤為「敵人」的家庭;

    • 負責宣傳與落實「改造」政策;

    • 協助批鬥、抄家與人身控制;

    • 主導村內集會、檢討與階級審判。

  • 文化與歷史背景
    1950年代越南的土地改革運動中,dân quân 常扮演鬥爭前線的角色。許多人民團體成員其實是平民百姓,但因階級劃分而被賦予壓迫權力,反映出運動中階級仇恨被動員與制度化的現象。

  • 延伸理解
    文中女主角的「好友」成為人民團體一員後,不再以朋友身份幫忙,反而變成監視者,顯示出當時人際關係因政治鬥爭而扭曲;而那戶願意讓公公進屋烤火的家庭,也因擔心被舉報與牽連,最終不得不趕他離開,突顯出人民團體在村中造成的恐懼氛圍與人性淪喪。

若您需要我繼續整理其他詞語的註解(如 Ngả Haikhế 等),也可隨時告訴我。


😀😀😀😀
      Võ Thị Thấy

Buổi chiều, cha chổng tôi ngôi chẻ tre bên thềm nhà, thong thả nói, đợt này đội về xóm ta chắc không ai bị. Xóm ta nhà có ruộng cũng chỉ mấy sào.

Cha chổng tôi gầy gò, nước da mai mái, trở trời là mũi chảy ròng ròng. Trong túi áo cha có chiếc khăn lau nước mũi. Lúc này tôi thấy cha thò tay vào túi lấy khăn ra lau.

Cha vừa nói dứt câu, một người ở xóm dưới chạy ngoài ngõ vào. Nhanh lên, nhanh lên, có được gì cất nhanh, đội sắp lên.

Cha buông con dao, buông đoạn tre đang vót. Tôi nhìn cha, nhìn vào trong nhà, trong bếp, nhìn ra ngõ.

Cất gì bầy giờ? Thứ gì là quý giá? Tôi mới về nhà chồng được một tháng, chưa biết trong nhà mình có của nả gì.

Nhanh lên. Nhanh lên kia.

Cha chạy ra chuồng rơm lấy thang vào nhà leo lên chạn. Cha lấy xuống một chồng bát, có chừng mười cái. Lần đầu tiền tôi thấy những chiếc bát này.

Cha áp chồng bát vào ngực chạy ra gốc mít. Tôi đi tìm cuốc. Đào hố chôn bát.

Họ đã đến.

Không kịp nữa rổi.

Cha bị đưa đi.

Chồng tôi làm ngoài đồng chạy về. Người ta đang đốt những cuốn sách cuốn vở của anh. Có cả những tờ sớ, sổ tay. Tài liệu phản động phải đốt hết. Chổng tôi van xin cho giữ lại cuốn học bạ lớp tám.

Thẳng Bản phản động. Thằng Bản chặt cây phá vòng ngụy trang chỉ điểm cho giặc.

Bởi vì, có một lần bà ta đi ngang qua ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cầy tỉa bớt cành lá. Việc cha vẫn làm trước mùa mưa tới.

Một khối đá với mặt trên là những cục đá sắc nhọn. Cha phải ép đầu gối lên đá. Qụỳ suốt đêm, đầu cúi xuống, cho bà con lên chỉ tội.

Gẳn sáng cha được về nhà. Hai đầu gối sưng phù, rỉ máu. Tôi giã gừng, bọc vào vải, hơ nóng lền chườm cho cha.

Đêm hôm sau cha lại bị bắt đi. Buổi chiều tôi gấp một miếng giẻ may vào phần đẩu gối chiếc quẩn cho cha quỳ đỡ đau buốt.

Đứa nào may thêm vải này cho mày?

Dạ thưa, con tự may.

Lớp giẻ độn mặt sau chiếc quần bị tháo ra.

Đêm đó cha bị quỳ lâu hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc hơn đêm qua.

Đội ra lệnh tôi phải rời khỏi nhà chồng, cắt đứt mối quan hệ với gia đình địa chủ phản động. Không đi ngay hôm nay tôi sẽ bị đem ra đấu tố.

Thầy mẹ vì tôi cũng bị liên lụy. Thầy mẹ tôi quỳ xuống chân đội dạ thưa. Dạ thưa chúng con không biết nhà này là địa chủ nên mới gả con gái. Dạ thưa nay biết là địa chủ rồi xin đưa con gái vể nhà ngay.

Tôi về nhà với thầy mẹ. Ngôi nhà chồng tôi có hai gia đình đến ở. Chổng tôi, em trai và cha ở sau bếp. Những người mới đến ở có nhiệm vụ theo dõi sinh hoạt đi lại của ba cha con tên địa chủ.

Chồng muốn sang nhà gặp tôi phải đi vào ban đêm. Tôi đón anh ở cửa buồng, kéo anh vào buồng, tắt đèn, đưa cho anh bát cơm. Anh ăn vội bát cơm trong bóng tối. Mẹ tôi đứng ngoài canh.

Tôi có một cô bạn thân làm dân quần nhưng không nhờ cậy được. Lấy cớ là bạn, cô đến nhà tôi giám sát chặt hơn. Tôi muốn mang đồ ăn lên nhà mà không được. Chị gái chổng tôi cũng bị chặn đường lên với cha và các em.

Những ngày đó mọi người sống như thê' nào. Tôi không biết.

Mùa đông. Rét và mưa. Cha tôi mũi chảy ròng ròng, một manh áo mỏng đi giữa gió đổng phần phật. Cha đi vào rừng chặt nứa. Từ sáng đến chiều mới vác được nứa ra tới cửa rừng. Những cây nứa dài thượt mang ra được khỏi rừng vô cùng khó khăn. Cha gánh nứa ra tới làng Hòa Hải. Từ làng Hòa Hải về nhà còn dăm cầy số. Bước chân cha bủn rủn. Cơn đói và cơn rét. Cha không bước nổi. Cha thả gánh nứa vào một nhà bên đường xin hơ lửa. Chủ nhà cho ngồi bếp. Giọng cha run cầm cập, cho tôi xin một bát cơm. Nhà người ta ăn cơm rồi nhưng vẫn nấu một niêu cơm cho riêng cha. Thảm thương cho cha tôi, vào đúng ngôi nhà dân quần đang họp. Một dần quân đi vào bếp phát hiện ra cha tôi.

Thằng địa chủ sao cho vào đây?

Người chủ nhà tốt bụng nhưng nỗi sự hãi lớn hơn. Niêu cơm trên bếp vừa sôi. Họ chầm cho cha một bó đuốc. Bảo cha đi ra khỏi đây ngay.

Sáng hôm sau người ra đồng thấy một xác chết bên cầu Ngả Hai. Phủ trên thần xác là quần đùi áo mỏng. Bàn tay buông ra bó đuốc cháy dở.

Thân thể cha cuộn trong lá tro. Chổng tôi và em trai khiêng cha chôn bên đường, trên cánh đổng cha ngã xuống.

Cha ơi cha ơi. Tiếng khóc của chồng tôi rống lên trong đêm buốt tim gan người xóm nhỏ. Tôi biết cha chết thảm mà không đến được.

Ở nhà bên, chị gái chồng tôi khóc cha tay phải che mặt không cho ai nhìn thấy. Khóc địa chủ là khóc địch. Chồng chị là thầy giáo, nếu biết vợ anh khóc thương địch anh có thể bị đuổi dạy.

Cha ơi cha ơi.

Cha ơi là cha ơi.

Đêm nào chổng tôi cũng khóc cha.

Nửa năm sau con địa chủ tự do đi lại.

Tôi trở vể với chổng. Chồng tôi người như không còn sức sống. Chúng tôi cùng nhau lập lại cuộc sống.

Nhờ cuốn học bạ giữ được, chồng tồi đi học trường sư phạm. Trở thành thầy giáo giỏi, tận tuy với học sinh, phụ huynh thương mến. Và làm ông hiệu trưởng cho tới ngày nghỉ hưu.

Ông đột nhiên đổ bệnh. Người ta gọi là bệnh nói nhảm. Nửa đềm ông ngồi dậy và nói một mình. Các con không hiểu ông nói gì. Chi mình tôi hiểu những điểu ông nói ra. Chỉ mình tôi hiểu là ông không nói nhảm.

Ông uống rượu. Rói ông khóc. Ông ngồi bên thềm, bên chai rượu trắng, khóc tu tu. Cha ơi cha ơi. Cha ơi là cha ơi. Tiếng khóc cứa vào tim tôi một đêm khuya. Tôi nhìn thấy cha của chúng tôi năm xưa hiện vể.

Chổng tôi kều các con lại, nói cho các con biết làng mình người nào ác người nào hiền. Những câu chuyện đứt gãy khó hiểu.

Chưa khi nào chúng tôi nhắc chuyện năm xưa. Các con tôi làm sao hiểu được.

Ông xúc gạo mang đi cho một bà nghèo khổ trong làng. Ông nói với các con, bà tốt bụng lắm, thương gia đình mình nhiều lắm.

Cha bệnh nặng quá rồi. Các con lo lắng.

Ông Duyên bị điên rồi. Người ta nói với nhau.

Chổng tồi điên hay dòng tầm sự bị nén lại qua năm tháng dằng dặc mà thành ra như thế.

Ông đi lang thang. Ông đi ra cánh đồng. Ông đi giữa cơn mưa gió. Ông đi tìm cha. Cha ơi cha ơi mênh mông giữa đồng không.

Một buổi sáng như buổi sáng năm nào. Người ta thấy ông nằm dưới gốc cây khế. Sau một đêm mưa to gió lớn. Trên mình là quần đùi áo mỏng. Ông đã chết. Giữa cơn mưa trần thế.

鬼蟲(Ma trùng)

Về Trang Chính

Khi trong họ tộc có người chết, trùng với thời điểm người thân đột nhiên sinh bệnh nặng, thì con cháu trong gia đình người bệnh sẽ chuẩn bị xăng dầu, cuốc xẻng đi xới tung mộ người chết để yểm bùa chú

Trắng đêm canh mộ

Người dân 2 thôn Xuân Thiên Thượng và Xuân Thiên Hạ (xã Vinh  Xuân, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế), bao đời nay còn lưu truyền một hủ tục rùng rợn, gọi là tục “ma trùng”.

Đã 6 năm trôi qua, nhưng bà Phạm Thị Manh (76 tuổi, trú thôn Xuân Thiên Hạ) vẫn lo lắng khi nhắc đến việc mộ người chồng đã khuất bị đào trộm: “Chỉ vì tin rằng có con ma trùng ám lên người mà những kẻ bất nhân bất nghĩa đã đào xới mộ ông lên. Con cháu đi làm ăn xa cả nên những ngày mộ chồng chưa xanh cỏ, đêm khuya vắng tui phải một mình lặn lội ra ngồi giữa nghĩa địa canh chừng”.

Nhìn lên di ảnh người chồng đã khuất, bà Manh rưng rưng nước mắt kể: Chuyện xảy ra vào tháng 7/2005, khi đó ông Võ Văn D. (chồng bà) chết vì căn bệnh ung thư. Đúng một tuần sau, ông Võ Văn A. (người trong họ) đang khỏe mạnh bỗng nhiên mắc chứng “bệnh lạ”. Chân tay co giật liên hồi, cơ thể suy nhược, tinh thần sa sút. Nửa đêm nằm ngủ, ông A. thường la hoảng, nói trong cơn mơ thấy ông D. “hiện về” đè lên người. Nghe vậy, người chú ông A. quả quyết: “Chắc là linh hồn chưa siêu tán của ông D. về “ám” rồi đây”. Những người trong gia đình ông A. cũng đồng tình phải “quật” mộ ông D. lên để diệt cho kỳ được con “ma trùng”.

Tác giả trò chuyện với các cụ cao niên trong làng.

Nghe phong thanh mộ chồng sắp bị đào lên, bà Manh phải cầm đèn pin ra ngồi canh mộ. Suốt một tháng trời, cứ tầm chiều tối là bà và đứa con gái lại thay phiên nhau ra canh mộ đến sáng mới về. Lo lắng, sợ hãi khiến bà Manh cũng đổ bệnh.

Nhắc tới tục “ma trùng”, ông Võ Thanh Xuân – Phó Bí thư Đảng ủy xã Vinh Xuân, lắc đầu ngao ngán: “Hủ tục “ma trùng” có từ thời xa xưa, phải qua 49 ngày hoặc tròn một năm thì người chết mới có thể bình thản nghỉ ngơi, người sống không đổ oan cho người chết được nữa. Nhưng điều đáng nói là việc canh chừng mồ mả không chỉ khiến người dân lo lắng, bất an mà còn ảnh hưởng đến an ninh trật tự (ANTT) địa phương. Lực lượng công an xã và người dân đã nhiều lần phối hợp truy bắt, canh giữ nghĩa địa trước nguy cơ những người mê tín đào xới”. Hầu hết người dân trong làng thường đầu tư xây dựng những ngôi mộ khang trang, kiên cố để tránh việc bị đào phá.

Cách đây khoảng 2 tháng, cụ ông Phạm C. (85 tuổi) trút hơi thở cuối cùng trên giường bệnh do tuổi già sức yếu. 20 ngày sau, một đứa cháu gái cùng họ với cụ C. là Nguyễn Thị Kim M. đang khỏe mạnh bỗng nhiên phát bệnh nặng. Bố mẹ cháu M. thấy vậy vội đi nhờ thầy bói tìm cách chữa trị.

Thầy bói phán rằng, đứa trẻ bị “âm hồn” của người mới chết trong họ “ám”, muốn bắt đi cùng? Tin lời nói ấy là thật, bố mẹ cháu bé tức tốc gọi điện từ TP HCM ra cho người nhà ở Huế hỏi xem trong họ tộc mình có ai vừa chết không. Ông Phạm Hến (1944, trú thôn Xuân Thiên Thượng), tức ông nội cháu bé nghi ngờ cái chết cách đó 21 ngày của cụ Phạm C. có liên quan. Ngay tối hôm đó, ông Hến gọi cháu là Phạm Phúc (1962, người trong thôn) đến uống rượu và kể rõ sự tình. Hai người bàn định kế hoạch đào trộm mộ cụ C. để yểm bùa chú với hy vọng cứu được mạng sống đứa cháu ở TP HCM.

Đêm 4/3/2011, ông Hến và Phúc vác cuốc xẻng, mang theo xăng dầu đến mộ phần của cụ Phạm C. Hai người đào một cái hố sâu hơn 1m ngay giữa quan tài người chết. Sau đó nhét đầy rơm rạ rồi rưới xăng phóng hỏa, trừ tà. Họ cứ nghĩ đã diệt được con “ma trùng” là đứa cháu sẽ khỏe mạnh trở lại, nhưng bệnh tình đứa bé ngày càng nặng hơn. Gia đình phải đưa bé đi bệnh viện cấp cứu.

Mấy ngày sau, anh Phạm Tiến (con trai cụ C.) từ thành phố Huế về quê để làm lễ cúng tuần cho cha bỗng tá hỏa khi nhìn thấy đất đai quanh mộ bị xới tung. Nóng giận, anh Tiến vác dao sang nhà hai ông Hến, Phúc “hỏi tội”. Không vừa, ông Hến và Phúc lớn tiếng thóa mạ, tuyên bố: “Tau vừa mới đào mả cha mi lên để yểm bùa đó, coi mi mần chi được không?”. Rất may mọi người kịp thời can ngăn nên chưa xảy ra hậu quả.

Vụ việc sau đó được trình báo lên chính quyền và công an địa phương. Sáng 5/3, trong buổi hòa giải tại hội trường thôn, hai ông Hến – Phúc sau một hồi quanh co đã chủ động xin lỗi và mong được gia đình bị hại tha thứ. Ông Hến trình bày nguyên do xâm phạm mồ mả trái pháp luật cũng chỉ vì tư tưởng lạc hậu, mê tín dị đoan, thiếu hiểu biết. Được biết, năm 2006, ông Hến đã từng đi đào trộm mộ của người phụ nữ trong họ tộc để chữa bệnh cho người con bác ruột.

Về Trang Chính

1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)

1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)

😀😀😀😀

1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)


1. 命名為「乞丐」
當我父親從母親腹中滑落的那天,爺爺請來了一位「師父」作法。說是師父,奶奶也不清楚他是郎中、算命師,還是驅邪的巫師。師父從接生婆手中接過嬰兒,檢查身體後,低聲說:「太健康的孩子難養。」他低頭咬掉嬰兒左手小指的兩節,吞了下去。這孩子就被命名為「Mày」,意思是「乞丐」。這孩子等於死過一次,從此踏入另一段命運。我父親的左手只有四根半手指,正因如此。


2. 七次失敗與一口糯米飯
奶奶生了許多孩子,最後只養活了大伯Trung和我父親,中間有七次生育失敗。我背著弟弟跟著奶奶四處走,聽她講那些古怪的舊日傳說。奶奶常說:「這是Mày的孩子。」參加祭祖宴時,她只喝一碗木瓜湯,將飯菜分給我。我吃一半,另一半帶回去給弟妹。奶奶自己吃得極少,卻把最好的一口分給我。


1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)

3. 富戶的果園與我的羨望
每天我背著弟弟去伯父家,把弟弟放地上讓他爬,我趴在高而寬的門檻上看果園。那裡有柚子、軍李(mận quân)、釋迦(na)、檳榔與各種野菜。伯父家的園子肥沃,因為他請人從野地挑來富含沖積層的土壤。有人說:「這家給植物下了毒。」他們相信果樹茂盛,是因為下了毒藥。從祖父母分出家產後,伯父家的果園豐收,我家的卻荒蕪不堪。


4. 父親的「革命工作」
奶奶說,因為Mày忙著革命工作,我家的田地才如此荒涼。母親一人耕作租來的地,地主出犁牛與種子,她出力,收成對半分。父親常去開會,或在外頭,或在家中。我在外偷聽,從而知道法軍戰敗、《日內瓦協定》,也知道什麼是「越線」。但鄉親們只知道,天上沒飛機了,可以安心下田。


1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)

5. 土地改革前的警兆
大伯Trung買了三畝地,成了富戶,但在土地改革前過世。土改隊來時,先來我家找「反動根源」,一人指著我說:「這家不是窮,怎麼有這麼白胖的小孩?」然後他們去了別家。隔天,Trần Sặn帶人衝進伯父家,伯父被綁在李樹下。家產被分,一間半正屋也被扛走。那天他唱《坐靠船邊》,說:「有地就有飯吃。」


6. 掠奪與飢餓的開始
夜裡伯父母偷偷將兩袋稻穀埋在屋外,但仍被發現。犁被砍成柴,井水被封。剩下的偏房裡,奶奶與伯父母暫居。他們不能來我家住,我也不能和奶奶說話。熟透的稻子被「反動根源」一聲令下割走,伯父母想撿點稻穗也被趕走。只剩兩筐稻殼,一天只炒一把,磨成粉當調味料。吃時用菠蘿蜜葉做勺,一口粉,一口水吞下去。


1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)

7. 牛棚裡的冷飯
我父親每到中午會從自己飯裡掏出一把飯,藏在牛棚屋頂下。奶奶會提著破陶罐取水,順道站在牛棚吃那把冷飯。我思念奶奶,常背著弟弟去伯父家,在果園外遙望廚房。祖孫隔空對望,像陌生人。一個寒冷的十一月中午,奶奶經過牛棚時被地主兒子Ky從樹上用石頭砸中肋骨,血流出來。那之後,她再也沒下過床。


8. 父親被捕,奶奶辭世
一天夜裡,兩人闖進家中,一人拿火把,一人拿繩子,說父親因反革命活動被捕。我幫他戴帽子,他說:「別怕,爸爸沒對不起革命。」隔日,Triện告訴我父親關在他家。我跟去看他,父親坐在杜鵑花上,腳鐐枷鎖,天氣冷得刺骨。我撈了一筐死魚,放進溫水裡又活了。清晨,哥哥搖醒我:「Mị,奶奶走了。」三年後掘墓,發現她兩根肋骨斷了。


1956《魔咒之年》——段氏美(Đoàn Thị Mỹ)

9. 咒術送行的伯母
伯父母抬著奶奶,將她葬於村外溝邊。父親送葬完立刻回去受囚。十日後伯母也去世,人說是奶奶來帶她走,叫「鬼蟲」。為防伯母魂魄帶人,必施咒:紙牌放胸前,讓鬼打牌忘回家;鐮刀夾腋下,手一抬就痛;鍋蓋蓋臉,看不見路;棺前拴狗,帶狗不帶人。母親按師父指示購齊物品。咒術不可說,否則鬼會找上門。


10. 咒術遺物與六十年的沉默
哥哥因悲傷離村,姐姐因是地主女無人敢親。後與一越線失敗的男子成伴。我六十年未提咒術之事,怕讓他們更難過。他們如今皆已過世,子女也立了墓。重建時發現棺內咒術遺物,我仍沉默,不知是否對伯母有罪。我如今年歲已超奶奶,忌日那天總坐在她墳前,忍不住痛哭。




😀😀😀😀😀

當我父親從母親腹中滑落的那天,爺爺請了一位「師父」來作法。說是「師父」,但奶奶事後回憶,也說不清那是郎中、算命師,還是驅邪的巫師。師父從接生婆手中接過嬰兒,仔細撫摸身體各處,檢查是否健全。然後他低聲說,太健康的孩子難養。極為隱秘又迅速地,他低頭咬掉了嬰兒左手小指的兩節,吞了下去。那孩子就此被命名為「Mày」,意思是「乞丐」。這孩子等於死過一次,從此踏入了另一段命運。

我父親的左手只有四根半手指。

正因如此。

「世道亂,孩子也跟著亂。」奶奶說。

亂世的故事,總是聽來離奇。

奶奶生了許多孩子,最後只養活了兩個——大伯Trung和我父親。而從大伯到我父親,隔了七次生育失敗。

我背著弟弟,跟著奶奶四處走,聽她講那些古怪的舊日傳說。

我背著弟弟,跟著奶奶,她有什麼吃的,我也能分一口。

我是個好奇心強的孩子,又愛偷聽大人講話。

再加上記性好,六七十年前的事,我記得就像昨天。

奶奶帶我參加別人家的祭祖宴。她帶我去村口的井邊,用手捧水洗臉,再拉起裙角擦乾。她驕傲地對旁人說:「這是Mày的孩子。」

祭桌上擺著一盤硬得像石頭的糯米飯,一盤薄得能看到盤底花紋的肉片,一盤用樹薯粉和辣椒做的火腿,以及一碗木瓜湯。

六人一桌,加上我就是七人。奶奶將一塊肉、一塊火腿和一把糯米飯放入我碗中。我只吃一半,另一半要帶回去給弟妹。奶奶自己只喝了一碗木瓜湯。

她為了Mày那群餓得嗷嗷叫的孩子,甘願自己吃苦。

她吃飯時我站著背著弟弟望著她,她會從自己碗裡分食給我。

奶奶挑著稻穀回到家門口,看見孫子,就停下來,減下一把稻穀。她還舀一罐乾檳榔、一碗魚醬、一勺油給我,那油是伯父母用油棕果(quả tro)自製的。那種果子沒人要,他們卻能提煉成食用油。很多農家都能做這些,但只有我伯父母家真的做。乾燥的波羅蜜成為一種別樣的蒸飯配料,大魚用鹽埋起來,等風雨天取出食用,小魚做成魚醬,整天燉在爐灶邊。檳榔季節一到,伯父就買下整村的檳榔,倒在門前曬。姊姊烘幾鍋爆米花,女人和孩子們便來剝檳榔、切檳榔,時不時抓一把米花吃。檳榔晒乾後密封進罐,婚嫁季節南方人來買。那一季的檳榔收入,讓伯父買了桌子和六張椅子。有桌有椅的屋子,就是富戶。

每天我背著弟弟去伯父家,把弟弟放地上讓他爬,我趴在高而寬的門檻上看向那片綠意盎然的果園。

有甜柚子、軍李(mận quân)、釋迦(na)、茶樹,一排檳榔結實纍纍,腳邊長滿綠油油的野菜。

伯父家的園子肥沃,因為他請人從野地挑來富含沖積層的土壤。晚上,他雇五六個村中青年挑土來,每挑完一輪,供應一餐宵夜。吃完飯後,青年們喝著綠茶,聊得捨不得離去。

村民路過時會說:「這家給植物下了毒。」

他們堅信,那些樹如此茂盛,是因為施了毒藥。

從祖父母的園子分出來之後,伯父家的果園豐收繁茂,我家的則雜草叢生,荒蕪不堪。

奶奶說,那是因為Mày要忙「革命工作」。

一家九口,母親是唯一的勞動力。她耕種租來的田地,地主提供犁牛、種子和肥料,她出力,收成對半分。父親整天去開會,或在外頭,或在我家。他們開會時我在外頭偷聽。法軍戰敗的消息我就是這樣知道的,我也懂什麼是《日內瓦協定》(Hiệp định Genève),也知道「越線」是什麼。

「越線」這話題只能天主教徒私下談,信奉祖靈的鄉親只知道,從此天上沒飛機了,可以安心下田。

大伯Trung買了三畝地,稻穀堆滿倉,一到饑荒季節,村民就拿銅盆、銅鍋、銅盤來換米。伯父有了很多銅器,自然成了富戶。

大伯在土地改革前去世了。

等土改小隊(đội)來時,先來我家找「反動根源」。繞屋一圈後,一個人指著我說:「不是說這家窮,怎麼還有個這麼白胖的小孩?」然後他們就去別家了。

第二天早上,聽見外頭歡呼聲,我背著弟弟跑出去看。Trần Sặn先生帶著一隊人衝進伯母家。

伯父被綁在李樹下。上午分家產,下午分房屋。三間正屋被分成兩半。Trần Sặn扛走了一間半。

今天每次聽到有人唱《坐靠船邊》(Ngồi tựa mạn thuyền),我就想起那天下午Trần Sặn坐在籬笆邊,一邊唱歌一邊說:「有地就有飯吃。」

夜裡,伯父母偷偷把兩袋稻穀埋在屋外,用灰葉蓋住,還是被發現了。

果園裡的犁也被砍成柴,連井水都被封存。

廚房那間偏房孤零零地留在原地。竹床上只剩一張破蓆。那是奶奶、伯母和伯父母的臨時居所。奶奶不能來我家住,我也不能和她說話。

三畝地上的稻子都熟了。「反動根源」們一聲喊就來收割。伯父母想去自家田裡撿點稻穗,都被趕走了。

只剩兩筐稻殼。公的稻殼是碾米時掉在地上的,用來餵雞鴨;(風吹走的叫母稻殼)。每天拿一把來炒,磨成粉,做調味料。

沒有碗、沒有湯匙,就用菠蘿蜜葉捲成勺子,從石臼裡舀進嘴裡。一口粉,一口水,吞下去。

我奶奶吃那種粉時被噎住了。

每天中午吃飯時,我父親都會從自己的飯裡掏一把飯,放到檳榔葉上,藏在牛棚屋頂下。奶奶會提著一個破口的陶罐,到我家井邊取水。她會順道去牛棚,在那裡站著吃掉那把冷飯。

我思念奶奶,背著弟弟去伯父家,站在園外望向廚房。祖孫倆隔著距離對望,像陌生人。

十一月的天寒刺骨,一天中午,奶奶顫抖著身子,穿著裹裙,抱著陶罐經過牛棚時停下腳步。她彎腰,一塊石頭狠狠打在她的肋骨上,飯掉了,血流出來。那是Ky,地主兒子,坐在柚子樹上等著扔石頭。他知道奶奶這時候會經過牛棚。伯父母跑來攙扶她回去。

當晚,全家熟睡之際,兩人闖進家裡,一人高舉火把,一人拿繩子。「你因反革命活動被捕。」弟弟嚇得大哭。父親叫我拿帽子,我踮起腳幫他戴上。父親說:「別怕,爸爸沒有對不起革命。」

隔天放學後,Triện悄悄對我說:「你爸被關在我家。」

我跟著他去看父親。他坐在一堆杜鵑花(sim)上,被上了腳鐐。天氣冷得刺骨,Triện的父親拿杜鵑枝給他墊著。他安慰我幾句,要我安心回家。

那是刺骨寒冷的冬天。哥哥姐姐帶我去河邊撈死魚。手一伸進水裡就僵硬了,像鐵爪一樣撈魚。我撈了一筐,本以為死了,放進溫水裡又活蹦亂跳。

那天清晨,哥哥搖醒我:「Mị,奶奶走了。」

奶奶是凍死還是餓死的?自從被那塊石頭砸中,就再也沒下過床。三年後掘墓時,發現她兩根肋骨斷了。

我跑去找Triện報信。

父親跑在前,我緊跟其後。

伯父家的園子已經成為「農民的園子」。不能讓地主埋在農民的地裡,父親和伯母只好抬著奶奶走出村子,葬在苦楝樹下、溝邊。

奶奶埋葬後,父親立刻回去接受囚禁。

十來天後,伯母也去世了。也是凍死還是餓死,沒人知道。

人們說,是奶奶回來帶她走的。叫「鬼蟲」(ma trùng)。

父母將伯母用竹床抬來我家。

必須施咒,防止伯母再回來帶人走。但這咒術會讓其後代事業失敗,所以不能讓哥哥姐姐知道。

根據做法師的指示,母親去買了一副《三菊牌》(bài tam cúc)紙牌、一個鍋蓋、兩把鐮刀。

伯母躺在棺材裡,儀式開始:

  • 將紙牌放在胸前,意思是:鬼忙著打牌忘記回家。

  • 兩把鐮刀夾在腋下,意思是:鬼一抬手就被鐮刀割痛,不能走。

  • 鍋蓋蓋在臉上,意思是:鬼看不到回家的路。

  • 棺前拴一隻狗,意思是:鬼來時帶狗回去,不帶人。

看過咒術的人不得說出,否則鬼會找上門。

伯母死後,哥哥悲傷離村。後來政府來信說要把原本屬於我家的小牛和一塊田地還給他,但他沒回來。姐姐是地主之女,無人敢與之親近。後來一個想「渡線」失敗的人與她成了伴侶,他的妻兒逃走,他被關了六個月。他們同是天涯淪落人,便走到了一起。

當年的咒術,哥哥姐姐並不知情。六十年來我都不敢說出口。我害怕。不是怕鬼,而是不知怎麼說出口,讓他們不那麼難過。

如今他們都已過世,孩子們也已為父母立墓。直到重建墓地時,才發現那些咒術遺物仍在棺內。我沉默至今,不知這是否對伯母是一種罪過。我如今年紀已比當年奶奶還長壽。每次在她忌日那天,坐在她墳前,我總是忍不住痛哭。


簡評:

這是一篇記憶與罪疚交織的敘事詩,一個越南女性對土地改革期間的家族受難與傳統民間信仰的反思。作者段氏美(Đoàn Thị Mỹ)以細膩冷靜的筆觸,將歷史的創傷、靜默的抗爭與無聲的哀悼呈現於世人眼前。本文不僅記錄了歷史暴力的殘酷,更映照出親情與人性在絕境中的掙扎與堅守。以「咒術」為符號的記憶封印,直到墓園重建時才被打開——而這「說不出口的話」,正是許多家庭面對政治迫害後的集體創傷縮影。

😀😀😀

以下是根據您的要求改編的450字故事版本,保留「鬼重」、「渡線」、「三菊牌」三大要素與其核心情節與氛圍:


《越線前夜》

Đêm trước tập kết

那年冬天,祖母凍死了,伯母也在十天後離世。鄰里說,是「鬼蟲」,祖母回來帶走她。

父親與母親不信邪,卻也不敢不防。他們依照村中法師指示,用《三菊牌》壓在伯母胸前,象徵讓她忙著打牌忘記回家;兩把鐮刀夾在腋下,一抬手便疼;鍋蓋蓋臉,讓她看不見回家的路;又綁一條狗守靈,願她帶狗走,不帶人。

母親說,這咒術傳下來能鎮鬼,但會折子孫的運。為了保命,哥哥姐姐都不知道。

父親是革命分子,被誣為地主後入獄。祖母無法投靠我們,只能住破屋,靠父親藏飯活命。她從牛棚下挖出那把冷飯吃,最終被地主子弟一石砸斷肋骨,不久就去世。

埋葬那日,父親請假奔喪,又自動回監。

姐姐後來嫁給一個越線失敗的男人。原想南渡,卻被逮關半年。他們彼此破敗,卻成為彼此的避風港。

六十年後,改建祖墳,打開棺材時,那些紙牌、鐮刀與鍋蓋仍在。我默默望著,不知該告訴誰。我年紀已大,超過祖母當年年歲,每年忌日,都坐在墳前,一邊燒香,一邊哭泣,像是向她請罪。


如需進一步改寫為適合投稿的散文或圖文形式,也可協助處理。


😀😀😀😀

「渡線」的越文原文是 "tập kết"

在越南歷史語境中,"tập kết" 一詞常指:

在1954年《日內瓦協定》(Hiệp định Genève)簽署後,越南被分為北緯17度線以北的北越與以南的南越。當時許多越南人民軍與北方幹部及其家庭被命令**「集結北撤」**,這個行動被稱為 "tập kết ra Bắc",即「北上集結」。

但對於南方民眾而言,這也成為一個敏感詞彙。在民間口語中,「tập kết」也逐漸被人們以比較婉轉或謎語的方式稱為「渡線」(ý là: vượt tuyến),也就是「越過分界線前往北方」。


簡單對照:

  • tập kết:官方用語,意為「集結、集中」(特指撤往北越)

  • vượt tuyến:口語/非正式用語,意為「渡線、跨越軍事分界線」


在《魔咒之年》這篇小說中,當地村民不使用這些政治色彩濃厚的詞彙,而是說「天上沒飛機了,可以安心下田」,展現了政治語言與民間語言的巨大落差與壓抑。

😀😀😀


鬼重」(ma trùng)是越南民間信仰中的一種超自然現象,具體含義可以根據語境有所不同,但一般有以下幾層意思:


1. 纏身鬼魂/冤魂重疊

  • Ma:鬼、靈魂

  • Trùng:重複、重疊,也可指某種「傳染性」或「循環性」的命運

在傳統信仰中,ma trùng 通常指的是:

一種「冤魂纏身」或「家中不止一人接連死亡」的詛咒現象。
它被視為一種靈異病因家族性的厄運重疊

例如,一個家庭裡若在短時間內有多人相繼死亡,或同樣的死法(溺水、戰死、自殺),便可能被懷疑「trùng tang」或「ma trùng」,意即這家人被鬼魂循環帶走


2. 與「重喪」(trùng tang)相關聯

  • Trùng tang 是越南最常見的與 ma trùng 有關的信仰現象,意為「重喪」:

    指的是一個人死後不久,家中接連又有人死亡,形成「重疊的喪事」。
    民間認為這是某種冤魂或陰間力量在索命,與「鬼重」同屬一類觀念。

這種情況通常會請法師或巫師來「封棺」、「鎮魂」、「切斷鬼重」,以防更多災厄。


3. 在文學與民間故事中的用法

在小說或故事中,ma trùng 有時可比喻:

  • 戰後創傷的靈魂殘影

  • 家族陰影或遺傳式的命運悲劇

  • 一種難以言說但揮之不去的精神負擔

這種比喻在《魔咒之年》這類作品中尤其常見。


中文譯法建議

若譯作現代文學中文,可視情境使用:

  • 鬼重/冤纏

  • 家族詛咒

  • 亡靈糾纏

  • 重喪陰影

  • 或直接音譯為「麻重(ma trùng)」並加註說明


如你正在翻譯小說,歡迎提供上下文,我可以給出更貼切的翻譯與文化註解。

😀😀😀

bài tam cúc」是越南的一種傳統紙牌遊戲,中文可譯為:

🎴 三菊牌三菊紙牌


🀄 說明:

  • bài:越語中的「牌/紙牌」

  • tam cúc:字面為「三菊」,源自中文「三菊」之說,有一說與「三國」或「古代軍隊將卒」有關(非確定說法)

Tam Cúc 是一種古老的紙牌遊戲,常見於北越,尤其在農曆新年(Tết)期間由婦女或老人家玩。這種遊戲形式簡單,但帶有一定的策略性。


🎴 玩法特色(簡介):

  • 紙牌數量比撲克牌少,一般只用 32張,分為「紅」與「黑」兩色。

  • 每張牌有軍階或角色:將、士、象、車、馬、砲、卒(有時類似象棋的概念)

  • 遊戲人數通常為 2–4人

  • 目標是在若干輪牌局中取得最多勝局或出最強牌組

  • 有時會被當作一種占卜式娛樂遊戲,具有年節寓意


📌 中文譯法建議:

原文 中文譯名 備註
bài tam cúc 三菊牌 / 三菊紙牌 直譯,保留文化原味
bài tam cúc 傳統越南軍牌 若需更通俗說明
bài tam cúc 越南年節婦女紙牌遊戲 說明其用途與玩家性別背景

如果你正在翻譯小說中段落提到「bài tam cúc」,可依語境譯為:

她正在玩三菊牌 —— 一種北越婦女於年節時喜愛的傳統紙牌遊戲。
或:
她攤開紙牌,是越南北方常見的三菊牌(bài tam cúc),只有將、士、象這類角色。


如你有小說上下文,我也可以幫你翻譯那段,讓譯文更貼切自然。


😀😀😀

主要文章:1954 年日內瓦會議自由之路行動​​、越南土地改革北越土地改革1954 年越南

1956年《日內瓦協定》後,越南臨時分為北緯17度線以北的「北越」(越南民主共和國)與以南的「南越」(越南國,後為越南共和國)。當時,根據協定,雙方軍隊須分區駐紮,民眾可在1954年7月至1955年5月之間自由選擇遷往南北任一方。

針對「北越如何遷移在南越的越共軍民」這個問題,關鍵在於北越如何將南方的越共幹部和支持者秘密撤回北方。這涉及到北越與越共(南方民族解放勢力)的地下行動,其中有一些特定的術語與歷史背景:

一、秘密撤離行動:

北越進行了代號為**「1954年轉移行動」(Chiến dịch di cư 1954)**的軍民轉移行動。

但針對在南方活動的越共幹部,則有更隱密的專案安排。此類行動主要透過兩條方式:

由北方派遣「政工幹部」南下前往聯絡、安排撤離路線

利用柬埔寨、寮國等中立區或未受美軍監控的邊境進行偷渡

二、相關專有名詞與機構:

1. Tập kết ra Bắc(集結北上):

「Tập kết」意為「集結、集合」;「ra Bắc」是「前往北方」。

這是一個常見用語,指1954年後在南越的越共軍民、革命幹部依協定北撤。

2. Đoàn 559(559運輸部隊):

於1959年成立,負責開闢後來著名的「胡志明小道」,將南方支持者、軍民轉移至北方,或反向輸送兵力、物資。

雖成立時間略晚,但它繼承了早期南北秘密遷移任務的體系。

3. Đoàn 759 / 759部隊:

北越海上秘密補給部隊,負責早期海運接應行動,也是後來**「海上胡志明小道」**的前身。

在1959年前後用以將部分南方幹部運回北方,或從北方秘密送人至南越海岸。

三、南北越間遷徙的大背景:

北撤:約有9萬名越共軍民自南越北上,包括正規軍、政工幹部、地下黨員與家屬。

南遷:約有超過80萬名天主教徒與反共民眾由北越遷往南越,多由美軍與法軍協助(代號「Passage to Freedom」行動)。

總結重點:

類別 名稱 說明

南越越共北撤 Tập kết ra Bắc 指1954年協定後南方越共幹部軍民撤至北方

秘密運輸部隊 Đoàn 559 胡志明小道建立與人員輸送主力

海上運輸部隊 Đoàn 759 負責早期越共海運與撤離行動

軍民大規模遷移 1954年轉移行動 含雙方人口遷徙行動(南撤北撤)

若你需要用於研究或文章撰寫,我可以進一步幫你整理圖表或事件年表。是否需要?


😀😀😀


😀😀😀😀
Đoàn Thị Mỹ

Ngày cha tôi tuột ra khỏi bụng mẹ, ông nội mời thầy vể làm phép. Gọi là thầy nhưng khi kể lại chuyện này, bà nội cũng không biết đó là thầy lang, thầy bói, hay thầy trừ tà. Đón đứa bé từ tay bà đỡ, thầy lần sờ từng bộ phận trên cơ thể xem đứa bé lành lặn không. Đứa bé lành lặn khó nuôi. Thật kín đáo và nhanh chóng, thầy cúi xuống bàn tay bé sơ sinh, cắn hai lóng ngón út và nuốt gọn. Thầy đặt tên cha là Mày. Mày là ăn mày. Đứa bé coi như chết một lần. Đã sang một kiếp khác.

Bàn tay trái của cha tôi có bốn ngón rưỡi.

Là vì thế.

Người đời sơ mà con, bà nội nói.

Chuyện đời sơ nhiều chuyện nghe lạ lắm.

Bà nội sinh nhiểu con nhưng nuôi được hai. Là bác Trung và cha tôi. Khoảng cách từ bác Trung đến cha tôi là bảy lẩn sinh.

Tôi cõng em trên lưng, đi theo bà nội, nghe những chuyện lạ lắm đời sơ.

Tôi cõng em trên lưng, đi theo bà nội, bà có gì ăn tôi được ăn.

Tôi là đứa trẻ tò mò, lại thêm thói hóng chuyện.

Lại thêm trí nhớ tốt. Chuyện sáu, bảy chục năm trước, tồi nhớ như mới.

Bà nôi được mời đi ăn giỗ cho tôi theo. Bà dắt tôi ra giếng làng, vốc nước lên rửa mặt, kéo váy lên lau khô mặt. Bà khoe với người ta, con thằng Mày đấy.

Mâm cỗ có một đĩa xôi cứng ngắc, một đĩa thịt sáu miếng mỏng dính sắp lên nhìn thấy rõ cả hoa văn lòng đĩa, một đĩa giò làm bằng bột sắn và ớt cay, một bát canh đu đủ.

Sáu người ngồi một mâm, thêm tôi là bảy. Bà nội cho vào bát tôi một miếng thịt, một miếng giò, một nắm xôi. Nắm xôi tồi ăn một nửa, một nửa mang vể cho các em. Bà chỉ ăn một bát canh đu đủ.

Vì lũ con nheo nhóc của thằng Mày mà bà khổ. Bà không ăn nổi một miếng ngon.

Bà ngồi ăn cơm tồi đứng cõng em nhìn. Bà san bớt phần ăn của bà cho cháu.

Bà gánh lúa vê' tới ngõ, thấy cháu, dừng gánh, bớt một bó. Bà xúc một lon cau khô. Bà xúc một bát mắm. Bà bớt một muôi dầu. Là dầu anh chị chế biến từ quả tro (quả cọ). Thứ quả không mấy ai để ý, anh chị chưng lên thành dầu ăn. Nhiều đổ ăn người nông dân nào cũng có thể làm nhưng chỉ nhà bác tôi làm, chỉ anh chị tôi làm. Mít phơi khô, một món hấp cơm lạ miệng. Cá to nướng vùi trong lu muối, dành vào ngày mưa gió. Cá nhỏ làm mắm vần một nồi bên bếp. Mùa cau bác mua hết cau trong làng đổ ngoài thềm. Chị tôi rang vài mẻ cốm là đàn bà con nít đến róc cau, bổ cau, chốc chốc dừng tay vốc một nắm cốm. Cau khô bọc kín vào chum, mùa cưới người miền xuôi lên mua buôn. Tiển bán cau sau một mùa bác mua được cái bàn và sáu chiếc ghế. Nhà có bàn có ghế là nhà sang.

Mỗi ngày tôi cõng em sang nhà bác. Thả em bò lăn lê dưới đất, tồi nằm sấp trên bục cửa rộng và cao, nhìn ra vườn cây xanh mướt.

Cây bưởi ngọt. Mận quân. Na. Chè. Hàng cau trĩu quả dưới chần quấn quýt trẩu xanh.

Đất vườn bác tốt, vì bác nhờ người gánh đất phù sa ngoài đổng. Buổi tối, bác mướn dăm, sáu thanh niên trong làng đến gánh. Gánh một lúc được bữa cơm khuya. Sau bữa cơm khuya thanh niên uống nước chè xanh trò chuyện mãi chưa muốn vể.

Người làng đi qua khu vườn của bác, nói với nhau, nhà này bón thuốc độc.

Họ tin như thế, cây cối tốt xanh vì bón thuốc độc.

Từ một vườn ông bà nội tách ra, vườn nhà bác mượt mà hoa quả, vườn nhà tồi xơ xác cỏ dại.

Bà nội nói, bởi cha Mày phải lo việc cách mạng.

Chín miệng ăn, lao động chính là mẹ. Mẹ cấy ruộng rẽ. Chủ ruộng cấp trầu cày, thóc giống, phần bón. Mẹ bỏ công. Thu hoạch chia đôi. Cha tồi đi họp. Họp ở đâu đó và họp ở nhà tôi. Mỗi buổi các ông họp, tôi đứng ngoài nghe. Chiến tranh chống Pháp thắng lợi là tôi biết. Tôi biết cả hiệp định Geneve, nói chuyện vượt tuyến là tôi hiểu. Chuyện vượt tuyến chỉ người bền cồng giáo thầm thì với nhau. Bà con bên lương chỉ biết từ nay trên trời không có máy bay yên tầm đi làm đồng.

Bác Trung mua được ba mẫu ruộng. Thóc chất đầy bổ để dành tháng đói người trong làng mang chậu đồng, nổi đồng, mâm đồng đến đổi. Có nhiều đồ đồng bác thành nhà giàu.

Bác Trung mất trước khi đội về.

Đội vể, đến nhà tôi tìm rễ xầu chuỗi. Đi một vòng trong nhà ra sau hồi. Một ông chỉ vào tôi, nghe nói là nhà nghèo mà sao có đứa béo và trắng thế này. Đội đi tìm nhà khác.

Sáng hôm sau tiếng hò reo ngoài đường, tồi cõng em ra xem. Ông Trần Sặn dẫn đầu đoàn người tiến vào nhà bác gái.

Bác bị trói bên cầy mận quần. Sáng chia tài sản. Chiểu chia nhà. Ngôi nhà ba gian chia đôi. Ông Trần Sặn khiêng vể một gian rưỡi. Hôm nay nghe ai hát “Ngồi tựa mạn thuyển” là tôi giật mình nhớ hình ảnh ông Trần Sặn chiểu chiều ngồi tựa hàng rào hát ngồi rằng mà ngồi tựa ơ ơ mà ngồi tựa mà có ruộng cày.

Hai bao thóc anh chị nửa đêm đem ra lấp ngoài nhà phần, đậy lá tro. Cũng bị phát hiện.

Cầy ngoài vườn chặt làm củi. Niêm phong cả giếng nước.

Trơ trọi cái chái bếp bên nền nhà. Trên chõng một manh chiếu. Là nơi ở của bà, bác và anh chị. Bà không được sang ở nhà tôi. Tồi không được nói chuyện với bà.

Lúa ngoài đồng chín rộ cả ba mẫu. Rễ, chuỗi hò nhau ra gặt. Anh chị đến ruộng của nhà mình mót lúa bị đuổi.

Còn hai thúng dẹp đực. Dẹp đực là dẹp rơi tại chỗ khi gấm thóc, dùng cho gà vịt ăn. (Bay theo gió gọi là dẹp cái). Mỗi ngày lấy ra một nắm dẹp rang lên giã làm thính.

Không bát, không thìa. Bứt lá mít cuốn làm thìa xúc từ cối vào miệng. Một miếng thính chiêu một miếng nước cho trôi qua họng.

Bà tôi nuốt thính bị nghẹn.

Mỗi ngày, đến bữa ăn trưa cha tôi bớt một nắm cơm vào mo cau gác dưới mái chuồng bò. Bà ôm cái vò miệng đã vỡ toác sang giếng nhà tôi lấy nước. Bà ghé vào mái chuồng bò. Đứng tại đó ăn miếng cơm.

Nhớ bà, tôi cõng em sang, đứng ngoài vườn nhìn vào bếp. Bà cháu nhìn nhau như người không quen.

Tháng mười một trời rét căm căm, một buổi trưa bà tôi run rẩy trong chiếc váy đụp ôm chiếc vò. Ngang qua chuổng bò bà dừng lại. Bà khuya xuống, máu bên sườn chảy ra, miếng cơm tuột khỏi tay bà. Thằng Kỷ, con một cố nông, ngồi trên cầy bưởi chờ bà đi qua. Nó biết giờ này bà ghé vào mái chuồng bò. Viên gạch ném trúng vào sườn. Anh chị chạy ra dìu bà vể.

Đêm đó, vào lúc cả nhà đang ngủ, cha tôi bị bắt đi. Hai người xộc vào. Một người giơ cao ngọn đuốc, một người cẩm sợi dây thừng. “Anh đã bị bắt vì tội hoạt động phản động”. Em tôi tỉnh dậy sợ hãi khóc toáng. Cha bảo tôi lấy chiếc nón, tôi kiễng chân đội nón lên đầu cho cha. Cha nói, các con đừng lo, bọ không làm gì sai với cách mạng.

Hôm sau tan học, cu Triện nói nhỏ, bọ mi đang bị nhốt ở nhà tau.

Tôi theo cu Triện đến thăm cha. Cha ngồi trên đống sim, chần bị cùm. Trời lạnh, cha cu Triện ôm sim ra cho cha ngồi đỡ lạnh. Cha an ủi mấy cầu cho tôi yên lòng đi về.

Những ngày đông buốt giá. Anh chị rủ tôi ra sông vớt cá chết. Bàn tay vừa thò xuống nước đã cứng đơ, bàn tay biến thành mảnh sắt vớt cá. Tôi vớt được một rổ cá. Cá tưởng chết, vể thả trong nước ấm quẫy đuôi sống lại.

Sáng hôm anh tôi chạy sang lay tôi dậy. Mị ơi bà chết rồi.

Bà chết vì rét hay vì đói. Từ hôm bị trúng viên gạch thằng Kỷ bà nằm một chỗ. Ba năm sau bốc mộ bà thấy hai chiếc xương sườn bị gãy.

Tôi chạy lên nhà cu Triện báo cho cha.

Cha chạy trước tôi chạy sau.

Vườn của bác đã là vườn của nông dân. Không được chôn địa chủ trong vườn nông dân, cha và bác gái khiêng bà đi ra ngoài bờ mương, bên gốc cây xoan.

Lo xong việc cho bà, cha chạy ngay vể nơi giam giữ.

Mươi ngày sau bác gái tôi mất. Cũng không biết vì rét hay vì đói.

Vì bà vể bắt đi. Người ta nói vậy. Ma trùng.

Cha mẹ khiêng bác trên chõng sang nhà tôi.

Phải yểm bùa để bác gái không về bắt người đi nữa. Việc yểm bùa làm cho con của người bị yểm làm ăn lụn bại, vì thế anh chị không được biết.

Theo chỉ dẫn của người làm lễ, mẹ tôi đi mua một bộ bài tam cúc, một cái vung, hai cái lưỡi hái.

Bác gái nằm trong quan tài, lễ yểm bùa bắt đầu.

Bộ tam cúc đặt trên ngực. Ý nghĩa: ma mải chơi tam cúc mà quên vể nhà.

Hai lưỡi hái kẹp vào hai nách. Ý nghĩa: ma đứng dậy đi vể nhà, hai tay vung vẩy thì lưỡi hái cắt vào nách làm đau không đi được.

Cái vung đậy trên mặt. Ý nghĩa: ma không nhìn thấy đường về.

Một con chó buộc dầy vào cọc cắm đầu mộ. Ý nghĩa: ma vể thì bắt con chó đi thay người.

Người chứng kiến cảnh yểm bùa không được nói ra. Nói ra, ma về bắt người đó.

Sau cái chết của mẹ anh tôi buồn đau bỏ sang làng khác. Sau này xã nhắn về trả cho một con nghé và mảnh vườn lấy của nhà người khác nhưng anh không về. Chị xinh đẹp con địa chủ không ai làm bạn. Một anh vượt tuyến không thành, vợ con thoát còn anh bị bắt giam sáu tháng; cùng cảnh ngộ, hai người đến với nhau.

Chuyện yểm bùa năm xưa anh chị không được biết. Sáu mươi năm tôi không nói ra được điều này. Tôi sợ. Không phải là nỗi sợ bị ma bắt. Tôi không biết nói ra vào lúc nào cho anh chị đỡ đau lòng.

Giờ thì anh chị mất cả rồi. Các cháu đã xây mộ cha mẹ. Cho đến khi xây lại mộ những thứ đồ yểm bùa vẫn trong quan tài. Với sự im lặng này tôi không biết mình có tội với bác không. Tuổi tôi đã nhiều hơn bà nội tôi ngày đó. Mỗi lẩn giỗ bà, ngồi trước mộ bà tôi lại khóc.

選擇汪精衛中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體

選擇汪精衛 中華帝國會像奧匈帝國鄂圖曼土耳其帝國一樣戰敗解體 因為站錯了隊伍 北洋軍閥頭腦比汪精衛清楚 所以一戰才能拿回山東 孫文拿德國錢,他是反對參加一戰 選擇蔣介石, 中國將淪為共產主義國家 因為蔣介石鬥不過史達林 蔣介石即使打贏毛澤東 中國一樣會解體 中國是靠偽裝民族主義的...